|
Áp dụng đồng bộ các giải pháp sẽ giúp hạn chế ô nhiễm môi trường nông nghiệp |
Đặc biệt các điểm nóng về môi trường như tài nguyên rừng và biển bị xuống cấp; đa dạng sinh học bị suy giảm; dịch cúm gia cầm; ô nhiễm môi trường nghiêm trọng từ hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, chế biến thuỷ sản; suy thoái môi trường đất do xói mòn và canh tác quá mức trong sản xuất nông nghiệp; môi trường ao hồ, sông bị ô nhiễm do chất thải từ công nghiệp, nông nghiệp, làng nghề; ô nhiễm rác thải, nước thải sinh hoạt và chăn nuôi gia súc, gia cầm ở nông thôn...
Theo Bộ NN và PTNT, hiện cả nước có gần 5.000 nhà máy chế biến với quy mô công nghiệp các sản phẩm nông, lâm sản. Hàng năm, các nhà máy này thải vào môi trường khối lượng lớn các chất thải ở cả 3 dạng khí, lỏng, rắn sinh ra trong quá trình sản xuất tiêu thụ năng lượng, tiêu thụ nước và các chất bị loại bỏ trong quá trình chế biến, đóng gói. Chất lượng nước ở nhiều cơ sở chế biến nông lâm sản bị ô nhiễm nghiêm trọng, một số nơi đã ở mức báo động.
Nguyên nhân chính là do bất cập trong công tác quy hoạch sản xuất; tổ chức thực hiện pháp luật liên quan còn yếu; các nguồn lực cho công tác bảo vệ môi trường trong chế biến nông lâm sản không đáp ứng nhu cầu. Một nghiên cứu của Viện Khoa học Công nghệ Môi trường, Đại học Bách Khoa cho thấy, ô nhiễm nước thải ở các làng nghề là rất nghiêm trọng, ảnh hưởng rõ rệt tới sức khoẻ của người lao động, dân cư và một số khu vực xung quanh. Các bệnh về đường hô hấp, đau mắt, bệnh ngoài da... gia tăng thậm chí dẫn tới các bệnh mãn tính nguy hiểm như ung thư, quái thai, nhiễm độc kim loại nặng.
Chăn nuôi cũng là ngành có nhiều chất thải gây ô nhiễm môi trường không khí ở nông thôn. Ô nhiễm nhiệt, ô nhiễm tiếng ồn và nguy cơ lây các bệnh từ vật nuôi sang người ngày càng tăng cao do công nghệ, phương thức và quy mô chăn nước ta còn lạc hậu, nhỏ, phân tán, xen lẫn trong khu dân cư. Nguyên nhân do khả năng đầu tư cho chăn nuôi còn rất hạn chế ở đa số nông dân nên việc đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường trong chăn nuôi thường bị bỏ qua...
Để giảm thiểu những tác động xấu từ ô nhiễm môi trường đến sức khỏe nguồn nhân lực tại các vùng nông thôn hiện nay cần thực hiện các giải pháp sau:
Đầu tiên, cần phải có các kế hoạch và biện pháp đánh giá toàn diện về thực trạng ô nhiễm môi trường tại các khu vực nông thôn nước ta hiện nay. Tuy nhiên, do đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội tại mỗi địa phương khác nhau nên mức độ ô nhiễm môi trường khác nhau. Việc cần kíp hiện nay là phải lập được bản đồ về ô nhiễm môi trường tại các khu vực nông thôn, qua đó xác định các vùng ô nhiễm trọng tâm, trọng điểm để từng bước đề ra các biện pháp khắc phục phù hợp.
Thêm vào đó, chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề tại các khu vực nông thôn, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo. Đối với các khu công nghiệp đang đóng trên các địa bàn nông thôn hiện nay cần có quy định bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, đồng thời thường xuyên có báo cáo định kỳ về hoạt động xử lý nước thải, rác thải tại đó.
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về BVMT, trong đó những chế tài xử phạt (cưỡng chế hành chính và xử lý hình sự) phải thực sự đủ mạnh để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Về lâu dài, cần ban hành và thể chế hóa các luật lệ có liên quan đến công tác BVMT tại các khu vực nông thôn, tiến tới xây dựng bộ luật riêng về lĩnh vực này.
Cuối cùng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật BVMT, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp trong việc gìn giữ và BVMT; xây dựng ý thức sinh thái, làm cho mọi người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên - con người - xã hội. Đi đôi với công tác tuyên truyền, giáo dục cần tăng cường hơn nữa vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề này trên các địa bàn nông thôn, như các cấp chính quyền địa phương, các cơ quan quản lý và BVMT, các cơ sở y tế, các tổ chức đoàn thể có liên quan để đảm bảo cho công tác tuyên truyền, giáo dục và thực thi các biện pháp BVMT, bảo vệ và nâng cao sức khỏe có hiệu quả hơn.