(MTNT) - Ô nhiễm môi trường biển là hiện tượng nước biển bị thay đổi tính chất do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra. Việc này sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới các chỉ số sinh hóa của nước biển và gây hại tới sức khỏe con người cũng như các sinh vật sống trên biển.
|
Môi trường biển đang dần bị ô nhiễm trầm trọng bởi nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng phần lớn vẫn là do những tác động đến từ con người, chẳng hạn như xả rác bừa bãi, xả thẳng chất thải ra môi trường mà không qua xử lý. |
Nước chiếm khoảng 3/4 diện tích bề mặt trái đất, gồm nhiều nguồn như: Sông, hồ, ao, suối nhưng lớn nhất vẫn là biển và đại dương.
Nước biển mang đến rất nhiều lợi ích và đóng vai trò quan trọng đối với đời sống con người, cụ thể như: Cung cấp lượng hơi nước vô tận cho tầng khí quyển để tạo ra mây và mưa; giúp duy trì môi trường sống lý tưởng cho lượng lớn các loài động, thực vật; cung cấp tài nguyên khoáng sản, hải sản phong phú cho con người; mở ra tiềm năng phát triển du lịch cho một số nơi... Tuy nhiên, nước biển hiện đang bị ô nhiễm trầm trọng và dẫn đến nhiều hậu quả khó lường.
Vùng nước biển nói riêng và đại dương nói chung có đặc điểm là chứa lượng lớn các muối (trong đó NaCl chiếm phần lớn khoảng 77,8%), khí oxi, nito, cacbonic và các chất hữu cơ có nguồn gốc từ động, thực vật.
Tuy nhiên khi bị ô nhiễm, tính chất tự nhiên của nước biển sẽ bị xâm nhập bởi các thành phần lạ và thay đổi theo hướng tiêu cực, dẫn đến những hậu quả như: Suy giảm sự đa dạng sinh học trong môi trường biển; gây xói mòn các bờ biển; thiệt hại kinh tế... Để ngăn chặn và làm giảm thiểu những hậu quả này, hiện nay nhiều giải pháp bảo vệ môi trường biển đã được đề xuất.
Môi trường biển đang dần bị ô nhiễm trầm trọng bởi nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng phần lớn vẫn là do những tác động đến từ con người, chẳng hạn như xả rác bừa bãi, xả thẳng chất thải ra môi trường mà không qua xử lý.
Tại Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, một trong những mục tiêu cụ thể đến năm 2030 được Chính phủ đề ra là ô nhiễm môi trường biển được kiểm soát, ngăn ngừa và giảm thiểu.
Đến năm 2030, ở các đô thị ven biển, 100% chất thải nguy hại, chất thải rắn sinh hoạt được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn môi trường; 100% khu kinh tế, khu công nghiệp và khu đô thị ven biển được quy hoạch, xây dựng theo hướng bền vững, sinh thái, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đáp ứng các quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy định về môi trường và sức tải môi trường biển, khả năng phục hồi, chống chịu của hệ sinh thái biển, đảo.
Quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo, tăng diện tích các khu bảo tồn biển, khu vực biển, ven biển được bảo tồn đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia, bao gồm các khu bảo tồn biển và ven biển; khu vực tập trung sinh sản, khu vực thủy sản còn non tập trung sinh sống, nơi cư trú của các loài thủy sản, đường di cư của các loài thủy sản, các khu dự trữ sinh quyển, khu RAMSAR...; phục hồi diện tích rừng ngập mặn ven biển tối thiểu bằng mức năm 2000.
Ứng phó hiệu quả với thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng dựa vào sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo cùng với năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, biến đổi khí hậu và tác động của nước biển dâng được tăng cường.
Điều tra cơ bản và nghiên cứu khoa học biển và hải đảo cơ bản đáp ứng được yêu cầu của hoạt động khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học biển và hải đảo, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa biển; phòng, chống thiên tai; ứng phó biến đổi khí hậu và nước biển dâng góp phần phát triển bền vững kinh tế biển.
Đánh giá được tiềm năng, giá trị các tài nguyên biển quan trọng. Tối thiểu 50% diện tích vùng biển Việt Nam được điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển ở tỷ lệ bản đồ 1:500.000 và điều tra tỷ lệ lớn ở một số vùng trọng điểm. Thiết lập hệ thống thông tin tổng hợp về tài nguyên, môi trường biển đảo, bảo đảm tính tích hợp, chia sẻ và cập nhật.
Tầm nhìn đến năm 2050 tài nguyên biển và hải đảo được khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả nhằm đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh trên nền tảng tăng trưởng xanh, đa dạng sinh học biển được bảo tồn, môi trường biển và các hải đảo trong lành, xã hội hài hòa với thiên nhiên.
Từ mục tiêu nêu trên, một trong những định hướng, nhiệm vụ quan trọng đến năm 2030 được nêu tại Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 của Chính phủ là bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
Theo đó, thực hiện định kỳ công tác điều tra, thống kê, phân loại, quan trắc và đánh giá các loại hình ô nhiễm, tình trạng ô nhiễm, nguồn gây ô nhiễm môi trường biển.
|
Nước biển mang đến rất nhiều lợi ích và đóng vai trò quan trọng đối với đời sống con người như: Cung cấp lượng hơi nước vô tận cho tầng khí quyển để tạo ra mây và mưa; giúp duy trì môi trường sống lý tưởng cho lượng lớn các loài động, thực vật |
Đồng thời, đẩy mạnh điều tra, đánh giá sức chịu tải môi trường, xác định cấp độ rủi ro ô nhiễm môi trường biển cho phát triển kinh tế biển; phân vùng rủi ro và lập bản đồ phân vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển; công bố các khu vực biển, hải đảo vượt sức chịu tải môi trường. Đến năm 2025, hoàn thành lập bản đồ phân vùng rủi ro ô nhiễm và đánh giá sức chịu tải môi trường tại một số vùng rủi ro ô nhiễm cao ở vùng biển ven bờ.
Nhiệm vụ khác được đề ra là tăng cường năng lực và chủ động kiểm soát, giám sát, xử lý các vấn đề môi trường biển trong khu vực và toàn cầu bao gồm ô nhiễm xuyên biên giới, axit hóa đại dương và các vấn đề liên quan khác.
Cùng với đó, ưu tiên nguồn lực từ nguồn kinh phí bảo vệ môi trường để triển khai Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030. Đến năm 2030, tỷ lệ thu hồi, xử lý rác thải nhựa tại các bãi biển, khu du lịch biển và khu bảo tồn biển đạt 100%.
Chính phủ cũng đề ra nhiệm vụ tăng cường năng lực hệ thống quan trắc, giám sát tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Đến năm 2030, hệ thống quan trắc, giám sát tổng hợp được hoàn thiện, hoạt động hiệu quả và được kết nối và tích hợp dữ liệu với hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo quốc gia.