Thực trạng ô nhiễm do hóa chất thuốc BVTV tại Việt Nam
14:13 - 24/11/2015
(MTNT) - Theo thống kê trong những tháng đầu năm 2015, cả nước hiện vẫn còn tồn tại tới 1.562 điểm tồn lưu do hóa chất thuốc bảo vệ thực vật, nằm rải rác trên địa bàn 46 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Phân bón, thuốc BVTV được mua bán dễ dàng nhưng không nhiều người hiểu được rõ tác hại nguy hiểm của nó đối với môi trường
 
So với năm 2009, số điểm bị ô nhiễm đã tăng thêm khoảng 500 điểm, đó là do các tỉnh đã nhận thức tốt hơn vấn đề này và được cấp cơ sở kịp thời báo cáo khi có phát hiện. Trong số đó, hiện đang còn có khoảng 200 điểm tồn lưu do hóa chất bảo vệ thực vật mà mức độ được đánh giá là rủi ro cao gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến môi trường cũng như sức khỏe của cả cộng đồng.


 
Thực hiện Quyết định số 1946/QĐ-TTg ngày 21 tháng 10 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch xử lý, phòng ngừa ô nhiễm môi trường do hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu trên phạm vi cả nước, Bộ TNMT cùng phối hợp với ngành Bảo vệ thực vật và UBND các tỉnh có điểm ô nhiễm đã tiến hành xử lý, cải tạo, phục hồi môi trường đất bị ô nhiễm tại 58 điểm ô nhiễm; trong đó, có 27 điểm đã hoàn thành.

 
Hiện nay, phần lớn các khu vực bị ô nhiễm lại đang nằm lẫn trong khu dân cư hay các khu vực đất ruộng đang được canh tác. Những khu vực ô nhiễm này có diện tích từ vài chục mét vuông cho đến cả hàng ngàn mét vuông; chiều sâu đất ô nhiễm từ 0,5m - 3m. Từ đó có thể thấy, lượng đất bị ô nhiễm đang là con số rất lớn, đồng thời việc xử lý dứt điểm cũng hết sức tốn kém.

 
Do tính chất khó phân hủy, có thể tồn tại hàng chục, thậm chí hàng trăm năm trong đất nên thuốc bảo vệ thực vật nhóm POP có đặc điểm ô nhiễm khác với các loại thuốc mới được sử dụng gần đây. Những loại thuốc bảo vệ thực vật mới tuy độc tính cao nhưng có thời gian phân hủy ngắn nên khi bị rải trên mặt đất sẽ biến mất sau một vụ hoa màu. Hoặc nếu có bị nhiễm sâu vào đất thì quá trình xử lý cũng đơn giản hơn.


 
Theo đánh giá của Cục Quản lý chất thải và cải thiện môi trường- Tổng cục Môi trường thì ô nhiễm môi trường do tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật đang là một vấn đề môi trường hết sức nghiêm trọng. Đây là những hợp chất hữu cơ độc hại đứng đầu danh sách 12 loại độc chất nguy hiểm, tồn tại rất bền trong môi trường nên rất khó để phân hủy sinh học. Trong đó, chủ yếu lại là các loại hóa chất thuộc nhóm POPs như: DDT, 666, Aldrin...


Những hóa chất này có thể trôi theo nước mưa và ngấm sâu vào nguồn nước sinh hoạt hoặc tiềm ẩn trong không khí, thức ăn, nước uống. Đây được coi là một trong những tác nhân gây ra nhiều loại bệnh ung thư điển hình như hiện nay.

 
Trong danh mục điểm tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng theo Quyết định số 1946 của Thủ tướng Chính phủ, hiện cả nước còn có 15 tỉnh với 240 điểm tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật. Đặc biệt, ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hiện chiếm trên 60% số điểm nằm trong danh mục 100 khu vực ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng do tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật.


Vấn đề nan giải nhất tại các điểm tồn lưu thuốc bảo vệ thực vật ở Việt Nam là các hóa chất này đã bị chôn lấp, rò rỉ, rơi vãi trong quá trình vận chuyển... không phù hợp tiêu chuẩn. Do đó, công việc quản lý môi trường tại những điểm này sẽ phải tập trung vào nội dung cải tạo, xử lý triệt để nhằm phục hồi các khu vực bị ô nhiễm để đưa hiện trạng của đất và nguồn nước ngầm trở về được trạng thái ban đầu. Tuy nhiên, hiệu quả đến đâu lại đang lệ thuộc vào mức độ đầu tư kinh phí ra sao cho công tác này.


Trong số các địa phương đang phải gánh chịu “hậu họa” này, Nghệ An là tỉnh có nhiều điểm tồn lưu nhất với 189 điểm bị ô nhiễm nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Tỷ lệ này chiếm gần 80% số điểm bị ô nhiễm trong toàn quốc mà theo yêu cầu, đến năm 2025 phải được xử lý triệt để.


Theo kết quả phân tích của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nghệ An tại 277/913 điểm kho thuốc bảo vệ thực vật tồn lưu cho thấy: Đã xác định được tới 265 điểm có dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật trong đất lớn hơn quy chuẩn cho phép, chiếm tới 96%.
 


Việc xử lý dứt điểm ô nhiễm môi trường do tồn lưu thuốc bảo vệ thực vật là vấn đề vô cùng phức tạp; yêu cầu về mặt kỹ thuật xử lý rất cao và đòi hỏi có nguồn kinh phí khá lớn. Tỉnh đã và đang triển khai xử lý ô nhiễm môi trường do tồn lưu thuốc bảo vệ thực vật tại 10 điểm, đồng thời phối hợp với Tổng cục Môi trường triển khai thêm nhiều dự án xử lý khác. Ngoài ra tỉnh đã và đang tiến hành điều tra, đánh giá mức độ, phạm vi ô nhiễm, lập các dự án xử lý ở 73 điểm khác.


Điều đáng lo ngại là có tới 90% các điểm ô nhiễm do tồn lưu thuốc bảo vệ thực vật gây ra tại Nghệ An và Hà Tĩnh đều đang có dân cư sinh sống. Đa số diện tích đất bị ô nhiễm hiện vẫn được sử dụng để trồng cây lương thực, rau màu và chăn thả gia súc, gia cầm. Đồng thời, người dân ở những khu vực này cũng sử dụng nguồn nước giếng cho các sinh hoạt hàng ngày, chỉ một số rất ít gia đình xây được bể chứa nước mưa hoặc thực hiện lắng lọc nước giếng bằng các biện pháp qua sỏi, cát thông thường.


Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có một báo cáo chính thức đánh giá về những hậu quả do tồn lưu thuốc bảo vệ thực vật gây ra đối với sức khỏe con người và động, thực vật. Vì vậy, người dân và cả chính quyền sở tại ở ngay tại những điểm ô nhiễm vẫn không nhận thức được hết sự tác động nguy hại lâu dài của nó. Bởi vậy, tình trạng sống chung với hóa chất độc hại vẫn diễn ra hàng ngày ở những vùng bị ô nhiễm.

 
Thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn 2012-2015, tính đến thời điểm này, Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng các địa phương mới xử lý được 60 điểm tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật bị ô nhiễm nghiêm trọng. Tổng kinh phí được hỗ trợ từ ngân sách Trung ương đạt gần 250 tỷ đồng.


Bên cạnh đó, Bộ cũng đã triển khai xử lý thí điểm tiêu hủy hơn 900 tấn hóa chất chứa chất bảo vệ thực vật tồn lưu, xây dựng hướng dẫn kỹ thuật quản lý các khu vực bị ô nhiễm do hóa chất này. Tuy nhiên, với số lượng quá nhiều các điểm tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật đã phát hiện được thì việc xử lý vẫn còn là con số quá khiêm tốn.



​Các kho hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu hiện đang lưu giữ khoảng 217 tấn, 37.000 lít hóa chất thuốc bảo vệ thực vật và 29 tấn vỏ bao bì. Các kho chứa hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu hầu hết được xây dựng từ ​thập niên 80 trở về trước. Khi xây dựng, hầu hết không có ai quan tâm đến việc xử lý kết cấu, đồng thời cũng không được quan tâm tu sửa nên tất cả đều đã và đang trong tình trạng xuống cấp rất nghiêm trọng.


Theo một số chuyên gia, khi đánh giá về các điểm ô nhiễm tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật đã cho biết việc xử lý các loại hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu còn lưu trữ ở trong kho tương đối đơn giản; song việc cải tạo và phục hồi các khu vực bị ô nhiễm lại rất phức tạp và tốn kém. Chẳng hạn nếu như xử lý 1kg hóa chất tồn lưu chỉ cần 2 USD, nhưng phải cần tới 20 USD để xử lý 1kg hóa chất nếu bị rò rỉ vào vùng đất bề mặt; khi 1kg hóa chất bị thấm xuống tầng đất dưới cần tới 200 USD để xử lý thì nếu 1 kg hóa chất đã ngấm xuống nguồn nước ngầm thì sẽ phải sử dụng tới 2.000 USD để xử lý.
 

Như vậy, cùng với vấn đề kinh phí, ngay cả thời gian để xử lý những hóa chất độc hại này cũng tăng lên rất nhiều lần khi mà những hóa chất ấy đã bị phân tán ra môi trường.


Chính vì vậy, nhiều địa phương hiện vẫn gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý ô nhiễm tại các điểm tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật. Chẳng hạn như lựa chọn phương án và công nghệ xử lý nào cho phù hợp đối với từng điểm, thêm vào đó, kinh phí đầu tư rất lớn nên ngân sách tỉnh không thể đáp ứng được.


Trong nhiều năm qua, nhờ huy động được từ nhiều nguồn kinh phí khác nhau, Tổng cục Môi trường và các địa phương đã phối hợp tổ chức tiêu hủy, xây hầm bê tông kiên cố để chôn lấp hàng trăm tấn hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu tại những điểm “nóng” gây ô nhiễm môi trường. Điển hình như việc khoanh vùng xử lý ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật tại khu Lùm Nghè, thôn Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn (Nghệ An). Từ những năm 1970, nơi đây từng đặt nhà máy sản xuất thuốc bảo vệ thực vật.


Năm 2008, Cục Quản lý chất thải và Cải thiện môi trường đã lựa chọn giải pháp xây tường rào, đào mương thoát nước với đáy lót than bùn dẫn vào bể than hoạt tính, đã cách ly được khu vực ô nhiễm do thuốc bảo vệ thực vật với các khu vực xung quanh. Mặt khác, cho trồng cây bạch đàn phủ xanh toàn bộ diện tích ô nhiễm để cải tạo đất.


Đối với việc xử lý ô nhiễm đối với nơi từng đặt kho thuốc bảo vệ thực vật nằm ngay trong khu dân cư ở thôn Mậu II cũng thuộc xã Kim Liên, Cục Quản lý chất thải và Cải thiện môi trường đã tiến hành xây kè sâu 2m bao quanh diện tích đất ô nhiễm; xây bể hoạt tính gom nước mưa. Đặt biệt, diện tích nền kho thuốc trước đây giờ được trồng cỏ Vetnơ, là loại thực vật có thân cứng và lá sắc nhọn trâu bò không dám ăn, có khả năng hấp thụ và biến đổi được hóa chất độc hại trong đất, loài cỏ này tự lụi tàn và tái sinh mà không cần phải chăm sóc.

 
Về việc thực hiện di dời các công trình và người dân sinh sống trên khu vực ô nhiễm thì cần tiến hành cô lập, cách ly, bao vây ngăn chặn ô nhiễm do tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật ra môi trường xung quanh. Đồng thời cần xây dựng các hệ thống an toàn để ngăn ngừa người dân và gia súc tiếp xúc trực tiếp với những khu vực bị ô nhiễm.

 
Việt Nam hiện nay đã có nhiều lựa chọn hơn về công nghệ xử lý đất ô nhiễm. Phương pháp xử lý bằng cô lập, bao vây ngăn ngừa rủi ro và trồng cây cỏ trên đất thường được đánh giá là tối ưu vì có chi phí thấp nhất.

 
Trong thời gian qua, có một số xu hướng chính được áp dụng như: Việc cô lập vào bể chứa bằng bê tông từ năm 2007 đến nay cho thấy, thuốc trong bể hầu như không phân hủy theo như mong muốn lúc ban đầu. Nguyên nhân có thể vì mặc dù đã trộn thêm phân vi sinh, duy trì môi trường kiềm, làm tơi đất nhưng do việc thiết kế ống thông gió của bể đã thất bại nên thuốc bị cô lập và không thể phân hủy được.


 
Việc cô lập bằng cách ngăn chặn không cho nước chảy tràn qua mặt và trồng cây tỏ ra hợp lý hơn vì khu đất vẫn có hoạt động sinh vật, thuốc tiếp tục được phân hủy. Ví dụ, việc cô lập ở Mậu II tiến hành vào năm 2007, khi đó hàm lượng thuốc 666 trong các mẫu đất phần lớn cao hơn 1000mg/Kg. Năm 2011, trong số 10 mẫu đất thì chỉ có một mẫu có hàm lượng tổng BHC (666 và các đồng phân) cao hơn 39mg/Kg. Đến năm 2014, trong số 5 mẫu đất lấy ở Mậu II chỉ có một mẫu có hàm lượng tổng BHC 3,5mg/Kg, còn lại không phát hiện 666. Với hàm lượng đó, đất ở đây đã có thể dùng an toàn cho trồng cây lâu năm.

 
Cuối khu vực ngăn cách có thể làm bể bê tông chứa than hoạt tính hoặc làm một mương than bùn để lọc nước. Thực trạng các bể than hoạt tính (ví dụ như bể Mậu II xây từ năm 2008) mặc dù không được thay thế nhưng nước đầu ra vẫn đảm bảo không kéo theo thuốc bảo vệ thực vật POP.
 

Phương pháp dùng mương than bùn là kinh nghiệm của tư vấn quốc tế dựa trên một thực tế là than bùn thường được dùng để lọc nước khỏi các chất ô nhiễm. Mương có độ sâu từ 1- 1,5m, tùy vào địa hình của từng khu vực, chặn phía hạ lưu khu vực cô lập thay cho bể than hoạt tính. Ưu điểm của mương than bùn là một thực thể “sống”, có cây sậy hay cỏ mọc bên trên nên khi thuốc bảo vệ thực vật bị lưu lại trong than bùn sẽ vẫn tiếp tục bị phân hủy. Do đó thời hạn sử dụng mương than bùn gần như vô tận. Mương than bùn sẽ hòa đồng với đất theo thời gian, lại không tạo ra chất thải xây dựng như bể bê tông.

 
Tuy vậy, theo đánh giá của Cục Quản lý chất thải và Cải thiện môi trường, công tác khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường do tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật vẫn còn quá nhiều nan giải. Trong khi đó, hiệu quả xử lý các điểm ô nhiễm trong những năm qua vẫn còn hết sức khiêm tốn.


Do đó, biện pháp mà các địa phương ưu tiên được thực hiện là tăng cường truyền thông và nâng cao nhận thức của cộng đồng, nhất là cộng đồng dễ bị tổn thương đang sống gần khu vực bị ô nhiễm. Họ phải được trang bị các kiến thức để chủ động phòng tránh những tác hại của ô nhiễm do tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật đối với sức khỏe và sinh kế của mình.
 

Hải Yến
Thêm bình luận :
Họ và tên
Email

Bài đọc nhiều nhất

Nông dân với chương trình môi trường nông thôn