Bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình CNH, HĐH
11:15 - 31/05/2016
(MTNT) - Trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, vì còn tập trung ưu tiên phát triển kinh tế và cũng một phần do nhận thức hạn chế nên việc gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường chưa được chú trọng đúng mức. Tình trạng tách rời công tác bảo vệ môi trường với sự phát triển kinh tế- xã hội ở nhiều ngành, nhiều cấp, dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng.
|
Khu công nghiệp sẽ giải quyết cho nhiều lao động có việc làm nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ xả thải ô nhiễm môi trường |
Phải thấy rằng việc phát triển mạnh mẽ các khu công nghiệp trên cả nước là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta bởi đã mang lại những hiệu quả kinh tế- xã hội rất rõ rệt. Trong đó, hàng năm đã tạo ra 40% giá trị sản xuất công nghiệp, hơn 60% giá trị xuất khẩu của cả nước; giải quyết việc làm cho hơn 1,6 triệu lao động trực tiếp và gần 1,8 triệu lao động gián tiếp.
Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế, hệ thống các khu công nghiệp ở nước ta hiện cũng đang tạo ra rất nhiều thách thức lớn về ô nhiễm do các chất thải rắn, nước thải, khí thải công nghiệp chứa nhiều hóa chất độc hại… Việc xả thải đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường tự nhiên cũng như đời sống sinh hoạt của người dân tại nhiều địa phương.
Đối tượng gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là hoạt động sản xuất của nhà máy trong các khu công nghiệp, hoạt động làng nghề và sinh hoạt tại các đô thị lớn. Ô nhiễm môi trường bao gồm 3 loại chính là: Ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí. Trong ba loại ô nhiễm đó thì ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn, khu công nghiệp và làng nghề được coi là nghiêm trọng nhất, mức độ ô nhiễm thậm chí vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép.
Nhìn chung, hầu hết các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn về môi trường theo quy định. Thực trạng đó làm cho môi trường sinh thái ở một số địa phương bị ô nhiễm nghiêm trọng. Cộng đồng dân cư, nhất là các cộng đồng dân cư đang sinh sống vùng lân cận với các khu công nghiệp hiện phải đối mặt với thảm hoạ về môi trường. Họ phải sống chung với khói, bụi, uống nước từ nguồn ô nhiễm các chất thải công nghiệp…
Cùng với sự ra đời ồ ạt các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề thủ công truyền thống cũng có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Việc phát triển các làng nghề có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội và giải quyết việc làm ở các địa phương. Tuy nhiên, hậu quả về môi trường do các hoạt động sản xuất làng nghề đưa lại cũng ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng ô nhiễm không khí, chủ yếu là do nhiên liệu sử dụng trong các làng nghề là than, lượng bụi và khí CO, CO2, SO2 và Nox thải ra trong quá trình sản xuất khá cao.
Theo thống kê, ô nhiễm môi trường nước do nước thải từ khu công nghiệp trong những năm gần đây là rất lớn, tốc độ gia tăng này cao hơn rất nhiều so với tổng nước thải từ các lĩnh vực khác. Riêng tại khu vực Đông Nam Bộ, lượng nước thải từ các khu công nghiệp ở đây chiếm đến 49% lượng nước thải của các khu công nghiệp trong toàn quốc.
Con số thống kê của Bộ Tài nguyên & MT cho thấy, tỷ lệ các khu công nghiệp có trạm xử lý nước thải tập trung chỉ chiếm 66%. Thực tế, rất nhiều khu công nghiệp đã đi vào hoạt động mà hoàn toàn chưa triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải cục bộ hoặc có nhưng không vận hành hay vận hành không hiệu quả. Trong khi đó, theo ước tính có khoảng 70% trong tổng số hơn một triệu mét khối nước thải mỗi ngày, đêm phát sinh từ các khu công nghiệp đã được xả thẳng ra nguồn tiếp nhận mà không hề qua xử lý.
Ô nhiễm môi trường không khí thì thường chủ yếu tập trung tại các khu công nghiệp cũ. Nguyên nhân do các khu công nghiệp này đang sử dụng công nghệ sản xuất lạc hậu hoặc chưa được đầu tư hệ thống xử lý khí thải trước khi thải ra ngoài môi trường. Ô nhiễm không khí tại các khu công nghiệp chủ yếu là bụi, một số khu công nghiệp khác có biểu hiện ô nhiễm CO2, SO2 và tiếng ồn.
Về chất thải rắn, thống kê cho thấy, lượng chất thải rắn cũng đang tăng lên cùng với việc gia tăng tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp. Nếu như tính trung bình trong cả nước, thời điểm năm 2008- 2009, một ha diện tích đất cho thuê phát sinh chất thải rắn khoảng 204 tấn/năm; năm 2015, tổng phát thải CTR đã vào khoảng 6- 7,5 triệu tấn/năm. Dự báo đến năm 2020 sẽ còn tăng lên thành từ 9- 13,5 triệu tấn/năm. Đó chính là một mối nguy hại rất lớn cho môi trường sống xung quanh.
Có thể nói, vấn đề ô nhiễm môi trường đã trở nên đáng báo động và khó kiểm soát. Hiện nay, nguồn ô nhiễm từ các khu, cụm công nghiệp đã hủy hoại môi trường sống tại các đô thị. Nhiều kênh rạch ở thành phố HCM hiện nay như: Tham Lương, Ba Bò, Thầy Cai, An Hạ… bị coi là những dòng kênh chết với màu đen ngòm và mùi hôi thối nồng nặc. Dòng chảy của kênh rạch đem theo một lượng nước thải khổng lồ cùng với đủ mọi loại rác thải được thải ra từ các hoạt động sản xuất công nghiệp cũng như sinh hoạt.
Hay như ở khu công nghiệp Biên Hòa (Đồng Nai), ô nhiễm vì có quá nhiều nhà máy hoạt động mà không được đầu tư cho hệ thống xử lý nước thải; rất nhiều công ty thường lén lút cho xả thải vào ban đêm để tránh bị phát hiện. Người dân không những phải chịu đựng sự ô nhiễm từ nguồn nước mà hàng ngày còn đang phải sống chung với mùi nhựa cao su, mùi sơn... bốc ra từ các nhà máy trong khu công nghiệp, tiềm ẩn trong đó rất nhiều nguy cơ bệnh tật.
Hoặc dòng sông Bắc Hưng Hải cũng đang ở tình trạng kêu cứu vì bị ô nhiễm trầm trọng do mỗi ngày, con sông phải tiếp nhận hàng nghìn m3 nước thải từ các khu công nghiệp thuộc địa phận thành phố Hà Nội như: Gia Lâm, Sài Đồng… Nước thải từ các làng nghề dẫn đến hiện tượng nước mặt trên hệ thống sông Bắc Hưng Hải, mà đặc biệt là tuyến chảy qua địa bàn Hưng Yên bị ô nhiễm trầm trọng… Đó chỉ là một vài ví dụ điển hình trong hàng trăm hàng nghìn những sự việc thực tế. Theo báo cáo của Chương trình môi trường của Liên hợp quốc, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang đứng đầu châu Á về mức độ ô nhiễm bụi.
Có thể thấy, rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường. Trước hết, phải kể tới là do những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng.
Theo thống kê của Bộ Tư pháp, hiện nay đang có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường nhằm để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế, các quy trình kỹ thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu trong sản xuất… Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn còn chưa hoàn thiện, thiếu sự đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao; hơn nữa, tình trạng văn bản mới được ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến… Từ đó, làm hạn chế hiệu quả điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế trong việc bảo vệ môi trường.
Tiếp theo phải kể tới quyền hạn pháp lí của các tổ chức bảo vệ môi trường, nhất là của lực lượng Cảnh sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh. Điều này đã làm hạn chế hiệu quả hoạt động nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Thêm vào đó, các cở sở pháp lí hay chế tài xử phạt đối với loại hành vi gây ô nhiễm môi trường và các loại tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa chưa đủ mạnh, dẫn đến sự hạn chế trong tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với những hành vi xâm hại môi trường. Rất ít trường hợp gây ô nhiễm môi trường bị xử lí hình sự. Các biện pháp xử lí khác như: Buộc phải di dời ra khỏi khu vực gây ô nhiễm; đóng cửa và đình chỉ hoạt động của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường… cũng không được áp dụng nhiều hoặc có áp dụng nhưng các cơ quan chức năng thiếu kiên quyết, doanh nghiệp chây ỳ dẫn tới không có hiệu quả.
Bên cạnh đó, các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với công tác bảo vệ môi trường, dẫn đến sự buông lỏng quản lí, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường của các cơ quan chức năng đối với các cơ sở sản xuất dường như vẫn còn mang tính hình thức. Công tác thẩm định và đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư còn tồn tại nhiều bất cập và chưa được coi trọng đúng mức, thậm chí chỉ được tiến hành một cách hình thức, qua loa đại khái cho đủ thủ tục dẫn đến chất lượng thẩm định và phê duyệt không cao.
Công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường trong xã hội còn nhiều hạn chế. Vì thế mà chưa phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, cộng đồng trong việc tham gia gìn giữ và bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ làm chuyên trách về công tác bảo vệ môi trường cũng còn hạn chế; hơn nữa, các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho công tác kiểm tra chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Do đó, trong nhiều trường hợp, đoàn kiểm tra đã không thể phát hiện được những thủ đoạn tinh vi của các doanh nghiệp khi họ cố tình xả thải những chất độc hại gây ô nhiễm ra môi trường.
Chính vì vậy, bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình CHN, HĐH hiện nay đang là một yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp và của mọi công dân. Để ngăn chặn, khắc phục và xử lí có hiệu quả những hành vi gây ô nhiễm môi trường, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu như: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường; trong đó, những chế tài xử phạt nghiêm khắc như cưỡng chế hành chính và xử lí hình sự phải thực sự đủ mạnh để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm.
Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống quản lí môi trường trong các nhà máy, các khu công nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế; tổ chức giám sát chặt chẽ nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người. Cần tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường (cả thường xuyên, định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường với lực lượng cảnh sát môi trường các cấp nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời, triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân.
Đồng thời, cần phải nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách về công tác môi trường; trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này. Chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao. Trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển để từ đó có những chính sách cho phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo như ở nhiều địa phương đã làm thời gian qua gây nhiều khó khăn cho công tác quản lí nói chung và quản lí môi trường nói riêng.
Đối với các khu công nghiệp, cần có quy định bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống thu gom, xử lí nước thải tập trung hoàn chỉnh mới được phép hoạt động; đồng thời, thường xuyên có báo cáo định kỳ về hoạt động xử lí nước thải, rác thải tại đó. Chú trọng và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá các tác động đến môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môn tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc cấp hay không cấp giấy phép đầu tư.
Việc quyết định các dự án đầu tư cần được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước mắt với những ảnh hưởng của nó đến môi trường về lâu dài. Thực hiện công khai, minh bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ chức và công dân có thể tham gia phản biện xã hội về tác động môi trường của những quy hoạch và dự án đó.
Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của mỗi người dân, doanh nghiệp trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường; xây dựng ý thức sinh thái, làm cho mọi người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên - con người - xã hội.
Ngọc Hưng