Khẩn trương hoàn thiện các phương án xử lý, khắc phục sạt lở đồng bằng sông Cửu Long
(MTNT) - Những năm gần đây, tình trạng biến đổi khí hậu gay gắt đang ngày càng tác động nhanh, mạnh đến nước ta. Việc này cũng gây ảnh hưởng xấu tới sự phát triển kinh tế và mức độ bền vững của xã hội, đồng thời còn đe dọa đến an toàn hệ thống kết cấu hạ tầng trong cả nước.
|
Các địa phương cần phải theo dõi chặt chẽ diễn biến sạt lở bờ sông, bờ biển để sớm cảnh báo cho người dân nhằm giảm tránh thiệt hại |
Theo kịch bản đã được dự báo trước, khu vực đồng bằng sông Cửu Long sẽ phải chịu mức độ ảnh hưởng nặng nề nhất. Đặc biệt là tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, ngập úng, sạt lở… Một nghiên cứu đã được công bố của Viện Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu cho thấy, có khoảng 38% diện tích đất ở đồng bằng sông Cửu Long rất có thể sẽ bị nước biển nhấn chìm vào năm 2100. Thế nhưng đáng lo ngại là trong tất cả những nguyên nhân gây ra sạt lở, các yếu tố có sự tác động của con người đang lại trở thành điểm mấu chốt.
Mặc dù Đảng, Nhà nước vẫn luôn quan tâm đến công tác ứng phó biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai trong suốt những năm vừa qua, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long như: Chủ động triển khai các Chương trình hợp tác với các nước Hà Lan, Đức, Pháp, Đan Mạch, Nhật Bản để nghiên cứu về vấn đề biến đổi khí hậu; tác động từ các đập thủy điện trên dòng chính hệ thống sông Mê Kông đến đồng bằng sông Cửu Long; tình trạng sạt lở, xâm thực bờ biển, suy thoái rừng ngập mặn trong vùng... Tuy nhiên, công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng chống sạt lở, xâm thực bờ biển, suy thoái rừng ngập mặn còn nhiều hạn chế.
Đồng bằng sông Cửu Long với nhiều điều kiện thuận lợi khi có một hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc, đường bờ biển dài trên 770 km2, địa hình bằng phẳng. Đây được xem là vùng trọng điểm về sản xuất nông nghiệp với diện tích canh tác lớn nhất, vì thế cũng có tác động rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội của cả nước.
Do đó, những hậu quả của biến đổi khí hậu, nước biển dâng cùng với sự can thiệp quá mức của con người vào thiên nhiên đã gây ra hiện tượng sạt lở bờ sông, bờ biển liên tiếp như vừa qua và đang trở thành vấn đề bức xúc nhất hiện nay. Những tác động tiêu cực từ các hoạt động của con người trong quá trình khai thác, sử dụng nguồn nước sông Mê Kông cũng sẽ trở nên hết sức nặng nề nếu như không được kiểm soát chặt chẽ. Trong tương lai gần, toàn vùng cũng cần sớm có những giải pháp hữu hiệu để khắc phục hiện tượng sạt lở một cách triệt để.
Thống kê cho thấy, trên toàn vùng hiện có 406 khu vực bờ sông, bờ biển bị sạt lở, với tổng chiều dài tới 891 km2. Trong đó, sạt lở đánh giá ở mức độ nguy hiểm có 17 đoạn, đặc biệt, tình trạng này còn đang có xu thế gia tăng cả về phạm vi và quy mô. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến các khu dân cư, các công trình phòng, chống thiên tai, cơ sở hạ tầng và còn làm mất dần rừng phòng hộ ven biển, gây nên nhiều tác động nghiêm trọng ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.
Phân tích của các chuyên gia trong lĩnh vực Tài nguyên nước và Môi trường cho thấy, nguy cơ làm gia tăng sạt lở bờ sông trong vùng đồng bằng sông Cửu Long có thể thấy rõ qua các hiện tượng biến đổi dòng chảy và chế độ thủy văn ở đây cùng những hoạt động của con người. Liên tục trong các năm hạn hán (từ 2002- 2010) và lũ lớn vào năm 2011, sự thay đổi của dòng chảy chủ yếu là do tác động của yếu tố khí hậu.
Có thể thấy, tác động đến thủy văn dòng chảy do việc phát triển thủy điện phía thượng lưu. Vì vậy, ở vào thời điểm này khi hiện tượng dòng chảy, bùn cát trên sông Mê Kông sụt giảm trong những năm gần đây là điều hết sức bất thường. Triều cường liên tục tăng cao từ năm 2005 đến nay đã làm gia tăng tốc độ dòng chảy trên dòng chính. Việc phát triển đê bao, bờ bao ngoài những lợi ích thấy rõ nhưng đồng thời cũng làm gia tăng tốc độ gây xói mòn.
Bên cạnh đó, nghề nuôi trồng thủy sản mà đặc biệt là nuôi tôm sú, tôm càng xanh, cua biển, các loài nhuyễn thể... phát triển mạnh tại hầu hết các huyện ven biển. Dù chính nghề này đã và đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều tỉnh nhưng với sự phát triển kiểu tự phát, tràn lan, thiếu tính quy hoạch đã làm tàn phá nhiều ha rừng ngập mặn ven bờ biển.
Thậm chí nghề nuôi trồng thủy sản đã có những dấu hiệu gây suy thoái môi trường, làm mất cân bằng sinh thái… tất cả những điều này làm tăng nguy cơ phá vỡ quá trình phát triển kinh tế, xã hội bền vững trong khu vực. Hậu quả trước mắt làm mất cân bằng địa động lực vùng bờ, gây nên sự xói lở bờ nghiêm trọng tại nhiều địa phương.
Ngoài ra, tình trạng xây dựng các công trình trái phép lấn chiếm mặt sông làm cản trở việc thoát lũ, dẫn đến hiện tượng xói lở cục bộ phía sau công trình. Tình trạng xây dựng các tuyến đường giao thông có cao trình vượt lũ năm 2000 và đê bao trong thời gian qua cũng đã làm giảm lượng nước lũ chảy vào nội đồng, làm gia tăng tốc độ dòng chảy và lưu lượng lũ vào hai dòng chính gây xói lở bờ sông.
Xói lở còn do những đợt sóng lớn từ các hoạt động vận tải thủy gây ra. Nhiều diện tích nuôi trồng thủy hải sản ở các khu vực bãi bồi và việc neo đậu bè cá không đúng quy hoạch cũng góp phần làm co hẹp và làm chuyển dịch dòng chảy của những con sông. Đặc biệt, nguy hiểm hơn cả là hoạt động khai thác cát, sỏi dưới lòng sông một cách ồ ạt, bừa bãi; đây chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tác động trực tiếp đến việc thay đổi dòng dẫn.
Trước tình hình nguy cấp đó, mới đây đoàn công tác của Chính phủ đã khảo sát để kịp thời đề xuất những giải pháp hiệu quả nhằm bảo vệ về tính mạng, tài sản cho người dân tại các khu vực có nguy cơ sạt lở cao cũng như giúp bà con ổn định được cuộc sống.
Theo đó, yêu cầu các ngành có liên quan phải theo dõi chặt chẽ, quan trắc, cảnh báo để có kế hoạch cảnh báo sớm sơ tán người dân nhanh nhất, không thiệt hại tính mạng, tài sản. Đối với khu vực phải di dời hoặc tiếp tục sạt lở, các địa phương tiếp tục quan tâm hỗ trợ người dân ổn định chỗ ở.
Các Bộ, ngành và chính quyền ở địa phương cần thường xuyên kiểm tra các công trình ven sông, ven biển để kịp thời bảo vệ công trình chống sạt lở. Cần giám sát, kiểm tra chặt việc cấp phép khai thác cát sỏi ven sông, ven biển; đặc biệt đối với những đơn vị cố tình khai thác cát sỏi trái phép, không đúng quy hoạch phải có chế tài xử lý thật nghiêm.
Các ngành chức năng cần tập trung nghiên cứu, xây dựng các công trình cứng như kè chống sạt lở bờ sông và các công trình nắn dòng; tính toán làm sao đưa ra được các thông số công trình hiệu quả để nhằm hạn chế thấp nhất tình trạng sạt lở tại đồng bằng sông Cửu Long như hiện nay.
Thêm một vấn đề cốt lõi khác, mặc dù các địa phương cũng đã triển khai rất nhiều giải pháp để khắc phục và ứng phó với thiên tai nhằm giúp người dân ổn định đời sống và sản xuất, tuy nhiên, để có một giải pháp mang tính bền vững lâu dài thì còn rất nhiều khó khăn, mà khó khăn lớn nhất là nguồn kinh phí đầu tư cho vấn đề này đang còn quá hạn hẹp. Trước mắt, UBND các địa phương phải phát hiện kịp thời, theo dõi chặt chẽ những diễn biến sạt lở bờ sông, bờ biển để có biện pháp ứng phó phù hợp; trong mọi tình huống phải xử lý rất thận trọng, làm sao để bảo vệ được tính mạng và tài sản của người dân.