(MTNT) - Chăn nuôi là ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam, là nguồn cung cấp thực phẩm chủ yếu cho người dân.
Đây cũng là ngành kinh tế giúp cho nông dân tăng thu nhập, giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi ở Việt Nam đã phải gặp nhiều khó khăn như rớt giá, bệnh dịch, sử dụng chất cấm và dư thừa kháng sinh... Hậu quả là nhiều người chăn nuôi đã bị thua lỗ nặng nề phải bỏ nghề, dịch bệnh xảy ra liên miên từ năm này sang năm khác, môi trường chăn nuôi bị ô nhiễm.
Tuy nhiên, do chăn nuôi quy mô nông hộ nhỏ lẻ, chuồng trại chăn nuôi thường được bà con bố trí ngay trên diện tích đất sinh hoạt chung của gia đình nên đã gây tác động lớn đến môi trường xung quanh, phát sinh dịch bệnh và sức khỏe người dân.
Theo Cục Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả nước hiện có 8,5 triệu hộ chăn nuôi quy mô gia đình, 18.000 trang trại chăn nuôi tập trung quy mô lớn. Ngoài sản phẩm trứng, thịt, sữa mang lại giá trị kinh tế cao cho bà con thì các hoạt động sản xuất chăn nuôi của bà con còn gây phát thải lượng chất thải lớn.
Theo tính toán của Viện Môi trường Nông nghiệp, hoạt động chăn nuôi của bà con mỗi năm gây phát sinh trên 85 triệu tấn chất thải rắn (phân, lông, da) và hàng trăm triệu tấn nước thải (nước tiểu, nước rửa chuồng). Mặc dù có lượng phát sinh chất thải lớn nhưng mới chỉ có 8,7% hộ chăn nuôi có sử dụng hầm khí sinh học, tổng lượng chất thải rắn chăn nuôi được sử lý chiếm chưa đầy 10%.
Kết quả khảo sát của Viện Môi trường Nông nghiệp cũng cho thấy chỉ có 10% chuồng trại chăn nuôi của bà con đạt yêu cầu về vệ sinh và chỉ 0,6% số hộ chăn nuôi có cam kết bảo vệ môi trường và còn nhiều hộ, ước tính trên 40% không áp dụng bất kỳ hình thức hoặc phương pháp xử lý chất thải nào trong chăn nuôi.
Như đã nêu trên, việc chăn nuôi quy mô nhỏ, không tận dụng và xử lý chất thải sẽ gây hậu quả xấu về môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe của bà con. Cụ thể chất thải chăn nuôi thải ra các ao hồ, kênh mương hoặc đường thoát nước sẽ gây tắc nghẽn dòng chảy, bốc mùi và gây ô nhiễm nước mặt, nước ngầm, không khí, đất và các sản phẩm nông nghiệp khác. Khi mức độ ô nhiễm cao sẽ gây ra nhiều căn bệnh về hô hấp, tiêu hóa, ngoài da và gây cảm giác rất khó chịu, ảnh hưởng đến tình làng nghĩa xóm, xáo trộn các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của bà con. Chất thải chăn nuôi, nhất là ở các vùng có dịch bệnh, các khu giết mổ tập trung còn chứa nhiều loại vi sinh vật gây bệnh như e-coli, salmonella gây bệnh tiêu chảy, đường ruột, các loại giun, sán gây bệnh, các loại vi-rút như H5N1, vi-rút gây bệnh tai xanh ở lợn,..
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và nhiều nhà khoa học ở Việt Nam đã cảnh báo rằng nếu không có biện pháp thu gom và xử lý chất thải chăn nuôi hợp lý và thỏa đáng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe cộng đồng, bùng phát dịch bệnh trên vật nuôi, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và gây tổn hại đến sức khoẻ con người. Đặc biệt là các virus biến thể nguy hiểm như vi-rút H5N1, vi-rút lở mồm long móng, vi-rút gây bệnh tai xanh ở lợn tồn tại trong chất thải và môi trường có thể lây lan nhanh chóng gây bùng phát dịch bệnh không chỉ làm chết vật nuôi mà còn đe dọa đến sinh mạng của loài người.
Thực tế ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu của Viện Chăn nuôi Quốc gia cũng cho thấy nồng độ khí H2S và NH3 trong chất thải chăn nuôi cao hơn mức cho phép khoảng 30-40 lần. Hiện trạng môi trường xung quanh các khu vực chăn nuôi bị ô nhiễm nghiêm trọng, gây nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất, sinh hoạt và tác động tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng không chỉ ở khu vực chăn nuôi mà còn lan rộng ra cả các khu vực phụ cận.
Do đó để giúp nông dân vừa phát triển sản xuất chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao nhưng cũng vừa đảm bảo về vệ sinh môi trường, ngăn ngừa những tác động tiêu cực đến sức khỏe bà con, các nhà khoa học khuyến cáo:
Lựa chọn vị trí xây dựng chuồng trại hợp lý: Chuồng nuôi xây dựng phải được đảm bảo mỹ quan, tách biệt với nơi sinh hoạt của con người, không bị gió lùa; thuận tiện cho quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phải giữ ấm vào mùa đông, mát về mùa hè, thuận tiện về nguồn nước và tiện cho công tác thu gom xử lý chất thải. Chuồng trại phải được xây xa đường giao thông chính, tránh được tiếng ồn và những hoạt động qua lại của con người.
Mật độ và diện tích chuồng nuôi: Mật độ nuôi là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng suất và sức đề kháng bệnh của vật nuôi, song hầu như ít được tuân thủ một cách nghiêm ngặt trong tổ chức bố trí sản xuất, do đó đã tạo ra một môi trường kém về độ thông thoáng, dễ phát sinh dịch bệnh và khả năng lây nhiễm bệnh cao.
Đối với từng loại gia súc, gia cầm đều có những khuyến cáo quy định về những khuyến cáo quy định về mật độ chăn nuôi và diện tích tối thiểu để đảm bảo cho sản xuất đạt tối ưu. Đối với đại gia súc mật độ nuôi nên đảm bảo từ 3 -5m2/con, tiểu gia súc từ 0,5 -2m2/con, gia cầm 9-10con/m2 đối với gà thịt và 4-5con/m2 đối với gà giống.
Ngoài ra, cần bố trí, sắp xếp các dãy chuồng nuôi hợp lý. Trong một trang trại chăn nuôi hoặc một hộ sản xuất khi xây dựng chuồng trại cần đảm bảo khoảng cách tối thiểu giữa các dãy chuồng từ 5 - 7m, như vậy sẽ thuận tiện trong quá trình sản xuất, dễ áp dụng các biện pháp chăm sóc nuôi dưỡng, thuận tiện cho việc cách ly để điều trị khi có dịch bệnh xảy ra và phân tách được các lứa tuổi vật nuôi theo từng dãy chuồng. Thông thường đối với nông hộ chăn nuôi với quy mô nhỏ thì chuồng nuôi nên chia thành các ngăn để thuận tiện cho việc thực hiện các biện pháp chăm sóc, nuôi dưỡng và công tác phòng trị bệnh.
Đối với chăn nuôi quy mô lớn và theo phương thức công nghiệp yêu cầu các hộ chăn nuôi phải xây hầm khí sinh học để tận dụng chất thải chăn nuôi sản xuất khí gas cho đun nấu và không gây ô nhiễm môi trường, tuyệt đối không xả thải chất thải chăn nuôi chưa được xử lý ra môi trường.
Đối với chăn nuôi quy mô nông hộ nhỏ lẻ thì trong quy hoạch chuồng nuôi phải xây dựng bể chứa chất thải lỏng và ủ phân có nắp đậy. Hàng ngày tiến hành thu gom phân, rác trước khi xịt nước rửa chuồng để đưa vào hố ủ hoai mục làm phân bón.
Bà con có thể dùng vôi bột + đất bột + phân lân + lá phân xanh hoặc trấu cùng ủ với phân. Phân ủ hoai mục rất tốt vừa không có mùi, hàm lượng hữu cơ và đạm cao lại vừa không tồn tại mầm bệnh.
Để ủ được phân gia súc làm phân bón, bà con có thể thực hiện theo 2 phương pháp sau: Phương pháp ủ nguội: Bà con gom phân chuồng về hố và nén chặt, bổ sung thêm chất độn chuồng như rác, trấu, rơm rạ và giữ độ ẩm khoảng 70%, dùng bạt hay nilon che phủ trên miệng hố, bổ sung thêm chế phẩm vi sinh (có bán sẵn trên thị trường) và chỉ sau 3-6 tháng phân đã hoai mục hoàn toàn, bà con có thể sử dụng phân này bón cho các cây trồng, làm giá thể trồng rau rất tốt.
Phương pháp ủ nóng được chuẩn bị như ủ nguội nhưng không cần nén chặt đống phân và định kỳ 2 tháng dùng dụng cụ xáo đống phân lại, cứ làm như thế khoảng 2 lần là phân oai mục, sau 3-4 tháng là phân hoai mục hoàn toàn. Cần làm ống thoát hơi từ đống phân lên cao để hạn chế mùi hôi phát tán.
Phương pháp xử lý bằng chế phẩm vi sinh hiện nay được sử dụng phổ biến đối với khu vực chăn nuôi có phát sinh chất thải lớn để giảm thời gian ủ phân. Các bước được thực hiện như sau:Chuẩn bị nguyên liệu, vật tư: Phế thải chăn nuôi được tập trung thu gom lại và xử lý trước khi ủ để điều chỉnh độ ẩm, pH, kích thước nguyên liệu cho phù hợp với quá trình ủ compost: Để tăng khả năng hoai mục, bà con có thể điều chỉnh độ ẩm bằng cách để khô ráo tự nhiên hoặc trộn với chất độn như than bùn, mùn cưa, trấu hoặc phế phụ phẩm nông nghiệp (nếu có) theo tỷ lệ 50:50.
Để tăng hiệu lực của đống ủ, bà con nên bổ sung thêm rỉ đường: 5 kg ; 3 kg đạm; 5 kg lân cho mỗi tấn phân ủ và 0,2kg chế phẩm vi sinh. Bà con cho chế phẩm vi sinh vật vào nước, khuấy đều cho tan hết sau đó dùng thiết bị tưới đều lên nguyên liệu ủ đã bổ sung thêm đạm, lân. Độ ẩm của khối ủ cần đạt 50-55% là tốt nhất.
Ủ và đảo trộn: Tiến hành đánh đống ủ theo hình khối hoặc hình chóp với kích thước: cao 0,6-1 m; rộng 1,2 m tùy theo lượng phân bà con có. Dùng nilon phủ kín bề mặt khối ủ để tăng nhiệt độ cho đống ủ, sau một tháng là phân ủ hoai mục hoàn toàn và có thể sử dụng được.
Nếu có điều kiện về nhân lực, bà con có thể tiến hành đảo đống ủ để tăng hoạt tính của vi sinh vật để rút ngắn thời gian ủ. Khi đảo thì cần đảo từ trên xuống dưới, sau khi đảo lại tiến hành ủ như bình thường. Nếu đảo trộn được 1-2 lần, mỗi lần đảo cách nhau 4-8 ngày thì chỉ sau 21 ngày là đống ủ hoai mục hoàn toàn và có thể sử dụng làm phân bón bón cho cây trồng.
Ngoải ra, để hạn chế mùi hôi ở chuồng trại bà con nông dân có thể mua các chế phẩm vi sinh để xử lý. Các loại chế phẩm này được bán phổ biến trên thị trường hoặc liên hệ với Viện Môi trường Nông nghiệp để được hỗ trợ kỹ thuật. Khi sử dụng chế phẩm bà con pha với nước và phun trên bề mặt diện tích chuồng để giảm mùi hôi.
Ngoài việc hàng ngày tiến hành dọn vệ sinh phân rác và nước tiêu vật nuôi, thì cần định kỳ hàng tuần quy định 1 ngày thực hiện tổng vệ sinh chuồng trại và khu vực chăn nuôi, thu gom rác về nơi quy định để đốt và phun khử trùng khu vực chăn nuôi bằng thuốc sát trùng để tiêu diệt nguồn mầm bệnh cư trú hoặc tiềm ẩn trong môi trường.
Xung quanh khu vực chăn nuôi tiến hành trồng cây xanh để tạo bóng mát và chắn được gió lạnh, gió nóng, ngoài ra cây xanh còn quang hợp hút khí CO2và thải khí O2 rất tốt cho môi trường chăn nuôi. Nên trồng các loại cây như: nhãn, vải, keo dậu, muồng….
Như vậy, công tác xử lý môi trường trong chăn nuôi là một trong những yếu tố quyết định đến năng suất, chất lượng sản phẩm vật nuôi, giữ gìn môi trường sinh thái.
Việc xử lý chất thải chăn nuôi được thực hiện dễ ràng để vừa tạo ra các loại phân bón hữu cơ có giá trị, hạn chế ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, lại vừa thể hiện được vai trò, trách nhiệm của người chăn nuôi đối với công tác bảo vệ môi trường.
Hàn Văn