Thời gian qua, do nhu cầu nuôi tôm hùm tăng mạnh tại tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên, đã khiến lượng lớn tôm hùm giống bị khai thác quá mức, dẫn đến cạn kiệt.
Hiện tôm hùm giống khai thác ngoài tự nhiên chỉ đáp ứng từ 10 - 15% nhu cầu người nuôi, còn lại phải nhập từ các nước lân cận.
|
Nguồn tôm hùm giống khai thác ngoài tự nhiên ngày càng cạn kiệt (Ảnh: Ngọc Khanh) |
Do đó việc tái tạo nguồn lợi tôm hùm giống sẽ có ý nghĩa rất lớn, giúp nghề nuôi tôm hùm phát triển bền vững.
Tôm hùm giống suy giảm
Trong năm 2016 - 2017, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III (Viện III) đã nghiên cứu hiện trạng nguồn lợi tôm hùm giống tại các vịnh Nha Trang và Vân Phong (Khánh Hòa) và toàn tỉnh Phú Yên.
Kết quả sau 2 năm, theo TS Thái Ngọc Chiến, Trưởng phòng Nghiên cứu Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản (Viện III), nguồn lợi tôm hùm giống đang có chiều hướng suy giảm. Cụ thể, số lượng tôm hùm giống ở vịnh Nha Trang trong năm 2016 khoảng 292.700 con, trong đó 224.500 con giống tôm hùm bông và 68.200 con giống tôm hùm xanh. Số lượng tôm hùm hậu ấu trùng (tôm hùm trắng) chiếm 88%, tôm hùm con (Juveniles) chiếm 12%. Còn năm 2017 số lượng tôm hùm giống ở vịnh Nha Trang khoảng 281.500 con (220.000 con tôm bông và 61.500 con tôm xanh) và vịnh Vân Phong khoảng 376.641 con/năm.
Nhìn chung nguồn lợi tôm hùm giống ở vịnh Vân Phong nhiều hơn ở vịnh Nha Trang. Riêng nguồn lợi tôm hùm giống ở vịnh Nha Trang có chiều hướng giảm nhẹ khoảng 11.200 con.
Tương tự, tại tỉnh Phú Yên sản lượng khai thác tôm hùm giống trong toàn tỉnh năm 2016 hơn 1,5 triệu con. Trong đó, sản lượng khai thác tôm hùm bông (859.361 con giống/năm) cao hơn gấp 1,5 lần so với tôm hùm xanh (583.586 con giống/năm), còn lại là các loài tôm hùm khác ít giá trị kinh tế (73.108 con/năm).
Tuy nhiên, trong năm 2017 sản lượng khai thác tôm hùm giống trong toàn tỉnh chỉ còn hơn 1,4 triệu con. Trong đó, sản lượng khai thác tôm hùm bông (826.788 con giống/năm) cao hơn gấp 1,4 lần so với tôm hùm xanh (596.045 con giống/năm), còn lại là các loài tôm hùm khác ít giá trị kinh tế (62.641 con/năm). Như vậy sản lượng tôm hùm giống tại Phú Yên năm 2017 đã giảm 30.081 con.
Cũng theo TS Thái Ngọc Chiến, kết quả điều tra cho thấy tôm hùm giống xuất hiện ở các vùng biển ven bờ của Khánh Hòa gần như quanh năm, mùa chính từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau và mùa phụ từ tháng 5 đến tháng 9 tính theo dương lịch. Còn Phú Yên mùa chính từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau và mùa phụ từ tháng 3 đến tháng 11. Mùa vụ khai thác tôm hùm giống liên quan đến mưa bão, chế độ gió. Vì sau kỳ mưa bão thì tôm hùm giống được dòng chảy đưa vào vùng biển ven bờ nhiều. Kết quả điều tra, số lượng tôm giống khai thác có liên quan đến chế độ gió bão và theo kinh nghiệm của người dân năm nào có gió bão nhiều, thì năm đó lượng tôm giống nhiều.
Theo Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III, hiện Bộ KH-CN đã cấp kinh phí cho đơn vị thực hiện đề tài cấp nhà nước về sản xuất giống tôm hùm bông giai đoạn 2018 - 2022. Trước đó, các nghiên cứu của Viện liên quan đến sinh sản tôm hùm đã đưa ra một số kết quả về đặc điểm sinh thái và phân bố của tôm hùm ở giai đoạn từ ấu trùng đến tôm trưởng thành, xác định chu kỳ lột xác và tốc độ tăng trưởng của chúng. Đối với nghiên cứu ương nuôi tôm hùm hậu ấu trùng, kết quả cho thấy giai đoạn ấu trùng puerulus không sử dụng thức ăn ngoài… |
Về phương pháp khai thác, tại tỉnh Phú Yên có 4 phương pháp khai thác tôm hùm giống bằng lưới mành thúng, lưới mành ghe, bẫy và lặn. Song, phương pháp phổ biến và cho sản lượng khai thác lớn nhất là lưới mành ghe, chiếm hơn 67% tổng sản lượng tôm hùm giống khai thác. Còn phương pháp bẫy là thấp nhất, chiếm hơn 2% tổng sản lượng tôm hùm giống khai thác. Riêng phương pháp khai thác bằng lưới mành thúng chỉ có ở Từ Nham (xã Xuân Thịnh), còn phương pháp lặn chỉ có ở thôn Mỹ Quang Nam và Mỹ Quang Bắc (xã An Chấn). Bên cạnh đó, trong 4 phương pháp khai thác trên, tôm hùm giống khai thác bằng phương pháp lặn có kích thước lớn nhất và chất lượng tốt nhất.
Theo Thông tư số 62/2008/TT-BNN của Bộ NN-PTNT không được phép khai thác tôm hùm bố mẹ từ tháng 4 - 7 hàng năm, đây là thời điểm tôm hùm sinh sản. Nhưng kết quả điều tra cho thấy nghề lặn bắt tôm hùm diễn ra gần như quanh năm.
Giải pháp
Theo TS Thái Ngọc Chiến, để tái tạo nguồn lợi tôm hùm giống, thời gian qua Viện III đã thực hiện một số chương trình nghiên cứu như xây dựng các khu bãi đẻ, bảo tồn và xây dựng mô hình nuôi tôm hùm quản lý cộng đồng. Đồng thời Viện đưa ra đề xuất khai thác tôm giống bền vững có quy định về mùa vụ và kích thước khai thác.
Bên cạnh đó, Viện cũng đã và đang thực hiện những nghiên cứu liên quan đến sinh sản nhân tạo tôm hùm, để chủ động nguồn giống, giúp giảm áp lực khai thác con giống trong tự nhiên.
Đối với các khu bảo vệ tôm hùm giống, Viện xây dựng mô hình tại đảo Hòn Chùa (Phú Yên), với diện tích 6ha và thả rạn nhân tạo bằng bê tông tại khu vực phía đông phường Vĩnh Hòa (vịnh Nha Trang), để bảo vệ nguồn lợi tôm hùm. Phương pháp sử dụng loại rạn nón cụt có kích thước 1,0 x 6,0 x 0,7m, ổn định rất cao, vừa có chức năng định vị trí, vừa tạo nơi trú ẩn cho các loài sinh vật thủy sinh. Từ kết quả khảo sát cho thấy, khu vực rạn nhân tạo có mật độ tôm hùm con trung bình cao hơn khu vực ngoài rạn. Đặc biệt khu vực rạn nhân tạo này thu hút các loài cá ở về đây trú ẩn rất nhiều.
Còn việc xây dựng mô hình nuôi tôm hùm đồng quản lý ở xã Vạn Hưng (vịnh Vân Phong) triển khai từ năm 2016 - 2017, theo TS Thái Ngọc Chiến, sau một thời gian hoạt động, nhóm nghiên cứu của đề tài kết hợp với Chi hội (nhóm nòng cốt) và các cấp chính quvền đã thực hiện các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức của bà con về việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản (trong đó có tôm hùm con) tại khu vực xây dựng mô hình.
Đồng thời nhóm nghiên cứu, nhóm nòng cốt và các tổ chức cấp chính quyền liên quan cũng đã kết hợp thực hiện công tác tuần tra, bảo vệ khu vực bãi giống, bảo vệ nguồn lợi tôm hùm giống.
“Qua các cuộc họp và hội thảo ý thức của bà con ngư dân khai thác tôm hùm giống đã được nâng lên rất nhiều. Sau khi xây dựng mô hình tài nguyên và nguồn lợi đã trở thành của chung của cộng đồng trong vùng. Người dân được hưởng lợi từ mô hình, yên tâm trong việc đầu tư phát triển, có trách nhiệm bảo vệ khu vực bãi giống. Từ đó hạn chế được việc xung đột giữa những người làm nghề khai thác tôm hùm giống với nhau, và giữa nghề khai thác này với các nghề khác. Hiện mô hình này đang chính quyền địa phương tiếp tục duy trì và sẽ nhân rộng trong thời gian tới”, TS Thái Ngọc Chiến chia sẻ.
Để tái tạo nguồn lợi tôm hùm giống, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III đề xuất, đối với tôm hùm giống không nên khai thác tôm hùm quá nhỏ (tôm trắng), kích thước khai thác tốt nhất là tôm giống đạt 3 - 4cm (chiều dài toàn thân) để tăng tỷ lệ sống. Hạn chế, khai thác có kiểm soát tôm hùm giống vào mùa chính (từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau). Đây là thời kỳ tôm hùm nhỏ còn sống trôi nổi (hậu ấu trùng), chúng vẫn còn biến thái tiếp tục lột xác để trở thành tôm hùm con (Juveniles). Cơ thể chúng rất yếu ớt, rất mẫn cảm với các tác động vật lý, hóa học và là thời kỳ có tỷ lệ sống rất thấp trong khai thác và thả nuôi. Đối với tôm con, có thể khai thác vào mùa hè thu (từ tháng 5 - 9) là thời kỳ chúng chuyển sang sống đáy. Bên cạnh đó, không nên sử dụng ngư cụ khai thác bằng bẫy san hô trong khai thác tôm hùm giống và cần phải giảm số lượng ghe khai thác bằng lưới mành. |