Đồng bộ hóa các giải pháp xử lý rác thải nông thôn
09:01 - 31/05/2018
(MTNT) - Việt Nam hiện có trên 60 triệu dân sống ở vùng nông thôn, chiếm hơn 73% dân số trong cả nước. Mỗi năm khu vực nông thôn phát sinh trên 13 triệu tấn rác thải sinh hoạt, khoảng 1.300 triệu m3 nước thải sinh hoạt và khoảng 7.500 tấn vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), 80% khối lượng rác thải, nước thải sinh hoạt và hầu hết lượng vỏ bao bì thuốc BVTV chưa được thu gom để xử lý hợp vệ sinh và xả trực tiếp vào môi trường.
Vấn đề ô nhiễm rác thải ở các vùng nông thôn đang ở mức báo động đỏ

Việc thu gom Chất thải rắn (CTR) tại nông thôn chưa được coi trọng. Nhiều thôn, xã, chưa có các đơn vị chuyên trách trong việc thu gom CTR nông thôn. Một số địa phương đã áp dụng các biện pháp thu gom rác thải sinh hoạt nhưng với quy mô nhỏ, phần lớn do hợp tác xã tự tổ chức thu gom, phương tiện thu gom còn rất thô sơ với các xe cải tiến chuyên chở về nơi tập trung rác. Mặt khác, hoạt động thu gom không diễn ra thường xuyên mà kết hợp với các đợt nạo vét kênh mương do xã phát động. Theo thống kê có khoảng 60% số thôn hoặc xã tổ chức thu dọn định kỳ, trên 40% thôn, xã đã hình thành các tổ thu gom rác thải tự quản. Tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt tại khu vực nông thôn mới đạt khoảng 40 – 55%. Do tỷ lệ thu gom chưa đáp ứng nhu cầu, nên rác vẫn tràn ngập khắp nơi công cộng, ao, hồ…

 
Đối với CTR từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp như bao bì, chai lọ hóa chất BVTV thì việc thu gom còn rất hạn chế. Tuy đây là nguồn CTR thuộc danh mục độc hại cần thu gom, xử lý đúng quy định, nhưng thực tế, sau khi được sử dụng người nông dân “tiện thể” vứt ngay tại bờ ruộng, góc vườn hoặc nguy hiểm hơn, có trường hợp còn vứt xuống ao, hồ, đầu nguồn nước sinh hoạt. Mặc dù đã có một số tỉnh/thành phố như Nghệ An, Tuyên Quang, Vĩnh Long thực hiện công tác tổ chức thu gom, lưu giữ, vận chuyển và xử lý các loại hóa chất, vỏ bao bì hóa chất BVTV, nhưng còn gặp rất nhiều khó khăn và hầu như chưa có mô hình thu gom bao bì hóa chất BVTV phù hợp với đặc thù của nền sản xuất nhỏ, phân tán như Việt Nam.


Đối với CTR từ các hoạt động làng nghề, mặc dù, công tác thu gom vận chuyển ngày càng được chính quyền các địa phương quan tâm nhưng dường như vẫn không thể đáp ứng được với yêu cầu và nếu có thu gom thì chưa triệt để, vẫn còn rất nhiều làng nghề xả thải trực tiếp ra môi trường gây ô nhiễm không khí, đất, nước, tác động xấu đến cảnh quan.


Trước tình trạng nêu trên, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, lồng ghép vào các văn bản quản lý môi trường nói chung, các văn bản quản lý sản xuất chuyên ngành nói riêng.


Công tác tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức và huy động sự tham gia của cộng đồng trong BVMT ở khu vực nông thôn cũng đang được đẩy mạnh và bước đầu thu được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, quản lý môi trường nông thôn vẫn còn nhiều bất cập chưa được giải quyết ở các mức độ và cấp độ quản lý khác nhau; nhiều văn bản quy phạm pháp luật chưa đầy đủ, thiếu tính đồng bộ; một số quy định pháp luật liên quan BVMT khu vực nông thôn thiếu tính khả thi, nhất là tình trạng chồng chéo trong phân công trách nhiệm giữa các cơ quan có liên quan; đầu tư cho quản lý và BVMT nông thôn chưa nhận được sự quan tâm, kinh phí thích đáng từ T.Ư, địa phương; công tác BVMT khu vực nông thôn chưa chú trọng đến việc quản lý và kiểm soát chất thải từ khu vực này một cách thật sự có hiệu quả…

 
 
Thực tế cho thấy, chức năng quản lý nhà nước về môi trường khu vực nông thôn giữa các ngành chưa có sự phân công rõ ràng cho một cơ quan quản lý dẫn đến hoạt động chồng chéo. Chưa có chính sách hỗ trợ cho các hoạt động quản lý chất thải nông thôn: Trong khi ở khu vực đô thị, các Công ty môi trường đô thị là các doanh nghiệp công ích Nhà Nước, 80% kinh phí hoạt động từ ngân sách Nhà Nước, 20% do dân đóng góp thì các tổ chức dịch vụ môi trường ở nông thôn kinh phí hoạt động chủ yếu từ nguồn thu phí dịch vụ môi trường do người dân đóng góp chỉ đủ để trả thù lao cho người thu gom rác với mức chỉ bằng 30-40% thu nhập của người thu gom rác ở đô thị. Người thu gom chưa được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, nhiều nơi chưa có bảo hộ lao động.

 
Bên cạnh đó, các tổ chức dịch vụ môi trường nông thôn chưa đủ năng lực để giải quyết trọn vẹn các vấn đề quản lý chất thải: Hầu hết các tổ chức xã hội ở nông thôn mới chỉ thực hiện được các nội dung về tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng, tổ chức thu gom chất thải mà chưa có các biện pháp xử lý dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải ngày càng gia tăng. Nhận thức của cộng đồng còn hạn chế cũng là nguyên nhân làm cản trở công tác xã hội hóa các hoạt động quản lý chất thải rắn sinh hoạt nông thôn.
 

Mỗi năm, hàng trăm tỷ đồng đã được chi cho công tác bảo đảm vệ sinh môi trường, đặc biệt là khu vực ngoại thành nhưng chất lượng môi trường ở nhiều địa phương vẫn còn hạn chế. Vì vậy, để sớm giải quyết những bất cập, bảo đảm môi trường nông thôn, đòi hỏi phải thực hiện giải pháp căn cơ, đồng bộ như:

 
Cần xây dựng qui chế quản lý, hương ước, qui ước nhằm huy động sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải nông thôn. Thực hiện chính sách khuyến khích và các biện pháp chế tài trong quản lý chất thải nông thôn. Đồng thời ban hành cơ chế hỗ trợ phát triển các tổ chức dịch vụ môi trường nông thôn.

 
Cần đề xuất cơ chế phối hợp giữa các loại hình dịch vụ, kết hợp giữa các cấp trong quản lý chất thải nông thôn. Nâng cao năng lực quản lý của địa phương: Thực hiện phân công trách nhiệm quản lý Nhà nuớc giữa các cấp trong quản lý chất thải nông thôn. Nâng cao năng lực, chất lượng hoạt động của các tổ chức dịch vụ môi trường. Nâng cao vai trò của mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên.

 
Lựa chọn các công nghệ phù hợp với điều kiện kinh tế, trình độ quản lý và tập quán của từng vùng để phổ biến áp dụng. Ưu tiên các biện pháp giảm thiểu chất thải tại nguồn phát sinh, tăng cường tận thu, tái chế, tái  sử dụng chất thải trong nông nghiệp.

 
Huy động sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải nông thôn; truyền thông về quyền và trách nhiệm của cộng đồng trong quản lý chất thải; huy động đóng góp về tài chính, nhân lực, sự tham gia các dịch vụ quản lý chất thải nông thôn của các tổ chức, cá nhân; xây dựng và thực hiện các chương trình tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, hướng dẫn tổ chức dịch vụ, kỹ năng giám sát cộng đồng dân cư trong quản lý chất thải nông thôn.
 
Hải Đăng
Thêm bình luận :
Họ và tên
Email

Bài đọc nhiều nhất

Nông dân với chương trình môi trường nông thôn