(MTNT)- Đa dạng sinh học và hệ sinh thái cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho xã hội, đặc biệt là các dịch vụ điều tiết và hỗ trợ, giúp con người thích ứng với các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu và rủi ro thiên tai… mang lại giá trị vô cùng to lớn. Thế nhưng, chưa bao giờ sự đa dạng sinh học trên toàn cầu bị suy thoái với tốc độ nghiêm trọng như hiện nay.
|
Việt Nam là một trong 12 trung tâm đa dạng sinh học của thế giới, có sự phong phú và đa dạng về các nguồn gien quý, hiếm. |
Trên hành tinh của chúng ta hiện có khoảng 30 triệu loài sinh vật và giữa chúng có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, thậm chí dựa vào nhau mà sống, loài này là thức ăn của loài kia. Chẳng hạn, cây cối chuyển hóa năng lượng Mặt Trời, trở thành thức ăn của động vật và thực vật lại nhờ động vật giúp thụ phấn hoa, phân tán quả đi khắp nơi…
Theo số liệu được đưa ra tại Hội nghị Thượng đỉnh (trực tuyến) về Đa dạng sinh học của Liên hợp quốc được tổ chức tại New York (Mỹ) vào ngày 30/9/2020, sự đa dạng sinh học trên Trái Đất vẫn đang suy giảm với tốc độ ngày càng nhanh. Hơn 1 triệu loài đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng cận kề. Các hoạt động của con người làm cho 75% bề mặt đất và 66% diện tích đại dương bị thay đổi mạnh mẽ.
Chương trình môi trường Liên hợp quốc (UNEP) ước tính có khoảng 7 triệu loài có nguy cơ tuyệt chủng trong khoảng 30 năm tới; 3/4 loài chim trên thế giới đang lụi dần; 1/4 loài có vú có nguy cơ biến mất khỏi Trái Đất.
Việt Nam là một trong 12 trung tâm đa dạng sinh học của thế giới, có sự phong phú và đa dạng về các nguồn gien quý, hiếm. Báo cáo quốc gia về đa dạng sinh học lần thứ 6 cho biết: Việt Nam có khoảng 51.400 loài sinh vật đã được xác định, gồm khoảng 7.500 loài/chủng vi sinh vật, khoảng 20.000 loài thực vật trên cạn và dưới nước, khoảng 10.900 loài động vật trên cạn, khoảng 2.000 loài động vật không xương sống và cá nước ngọt, hơn 11.000 loài sinh vật biển khác.
Các loài mới tiếp tục được ghi nhận và công bố hàng năm. Từ năm 2014 đến tháng 9/2018 có 344 loài sinh vật mới được mô tả và công bố trong các tạp chí khoa học có uy tín trên thế giới và tạp chí Sinh học của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Tuy vậy, cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam hiện đang phải đối mặt với tình trạng suy giảm và suy thoái đa dạng sinh học, thể hiện ở cả 3 dạng là đa dạng sinh học các hệ sinh thái; đa dạng sinh học các loài; đa dạng sinh học gen di truyền đều bị suy thoái nhanh cả về số lượng và chất lượng.
Cụ thể là các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng như các rừng nguyên sinh trên cạn, rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển, đất ngập nước nội địa, ven biển… đều bị thu hẹp diện tích, thành phần và chất lượng các quần xã sinh vật ở các hệ sinh thái này đều bị suy giảm.
Tổng diện tích rừng tự nhiên của Việt Nam năm 1943 có 14,3 triệu ha, với tỷ lệ che phủ là 43,8%, trên mức an toàn sinh thái là 33%, nhưng đến năm 1999 chỉ còn 10,88 triệu ha. Nguyên nhân chính làm mất rừng là do dân số tăng nhanh, nạn đốt nương làm rẫy tràn lan, quá trình khai hoang lấy đất trồng cây công nghiệp như cà phê, chè, cao su và khai thác gỗ xuất khẩu.
Tổng diện tích rừng ngập mặn cũng trong năm 1943 có tới 400.000ha, hiện chỉ còn 155.000ha, trong đó rừng nguyên sinh chiếm tỷ lệ rất thấp. Còn diện tích các rạn san hô (chưa kể hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) năm 2001 có 110.000ha, đến năm 2010 còn 14.000ha, chất lượng các rạn san hô cũng rất kém, nhiều loài đã chết.
Một chỉ số hiển thị suy thoái về đa dạng sinh học các loài là số các loài được ghi trong Sách đỏ. Qua 2 lần điều tra năm 1992 và năm 2007, số lượng các loài được ghi trong Sách đỏ đã tăng lên 1,5 lần. Trong đó thực vật có 37 loài rất nguy cấp, 178 loài nguy cấp. Động vật có 4 loài tuyệt chủng, 5 loài tuyệt chủng trong thiên nhiên, 48 loài rất nguy cấp và 113 loài nguy cấp.
Bên cạnh đó, số lượng các giống, chủng động vật, thực vật được nuôi trồng phục vụ cho sản xuất nông, lâm, thủy sản, y tế…đã mất đi khá nhanh, trong số này có rất nhiều gốc bản địa quý. Giai đoạn điều tra từ năm 1997-2006, về giống lúa từ 156 còn 75 giống; đậu tương 22 còn 9; lạc 14 còn 4; cà chua 14 còn 7; cao su 14 còn 2; cà phê 14 còn 5. Rất nhiều giống vật nuôi bản địa như lợn, gà, vịt, bò… nay đã mất giống.
Có hai nhóm nguyên nhân chính gây ra sự suy thoái đa dạng sinh học, đó là do các tác động bất lợi của tự nhiên và của con người. Trong đó, từ giữa thế kỷ 19 đến nay, các ảnh hưởng do con người gây nên đặc biệt nghiêm trọng, làm thay đổi và suy thoái cảnh quan trên diện rộng.
Theo báo cáo của UNEP, có 5 nguyên nhân chính gây mất đa dạng sinh học do hoạt động của con người gây ra, đó là: Thay đổi nhu cầu sử dụng đất; khai thác quá mức động, thực vật hoang dã; biến đổi khí hậu; ô nhiễm môi trường và sinh vật ngoại lai xâm hại. Trong đó, quá trình toàn cầu hóa đang làm gia tăng sự dịch chuyển các loài vượt ra ngoài phạm vi tự nhiên vốn có thông qua các hoạt động du lịch, thương mại... phá vỡ hệ sinh thái bản địa và môi trường.
Tại Việt Nam, các nhà khoa học chuyên ngành cho rằng, nguyên nhân chính yếu là do việc sử dụng, khai thác bất hợp pháp, không khoa học đa dạng sinh học vốn có. Đó là khai thác bừa bãi mang tính hủy diệt nguồn lợi, chuyển đổi sự dụng đất lâm nghiệp tràn lan chia cắt nơi ở, vùng phân bố của sinh vật, gây ô nhiễm các nguồn nước, đất và không khí…
Ngoài các nguyên nhân do con người gây ra, ngày càng rõ nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam là do biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan. Các nhà sinh thái học trên thế giới đã xác nhận tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đối với đa dạng sinh học gồm: Tăng áp lực tiêu diệt các loài quý hiếm, phân bố hẹp, số lượng cá thể ít; làm biến đổi, phân mảnh (do nước biển dâng cao) các hệ sinh thái biển, nhấn chìm một số đảo và dải bờ ven biển…; làm thay đổi vùng phân bố của các loài “nhạy cảm” với các yếu tố của biến đổi khí hậu như nhiệt độ, lượng mưa, lũ, hạn…
Trước tình trạng đa dạng sinh học trên toàn cầu bị suy thoái với tốc độ chưa từng có trong lịch sử loài người (IBPES, 2019), Liên hợp quốc đã kêu gọi áp dụng các “Giải pháp của chúng ta sẵn có ở thiên nhiên” nhằm thúc đẩy bảo tồn đa dạng sinh học, sống hài hòa với thiên nhiên, đóng góp chung vào nỗ lực toàn cầu trong bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và phát triển bền vững.
Giải pháp dựa vào thiên nhiên, đi kèm đó là bảo tồn đa dạng sinh học, phù hợp với Công ước Đa dạng sinh học năm 1992, vốn nhấn mạnh: Con người là một phần của thiên nhiên chứ không tách rời khỏi thiên nhiên. Đây cũng là chìa khóa để giảm nhẹ biến đổi khí hậu, tăng khả năng phục hồi và thích ứng ở một số khu vực quan trọng. Các khu vực này bao gồm bảo tồn, phục hồi rừng và các hệ sinh thái trên cạn; bảo tồn và phục hồi tài nguyên nước ngọt, hệ sinh thái biển và đại dương, cũng như hệ thống nông nghiệp và thực phẩm bền vững – nơi chiếm phần lớn diện tích Trái đất và tác động trực tiếp đến cuộc sống con người.
Các giải pháp dựa trên tự nhiên bao gồm cơ sở hạ tầng tự nhiên, xanh, tích hợp; hoặc kết hợp cả 3 yếu tố. Ví dụ thay vì xây đập hay đào hồ, chúng ta khôi phục và bảo tồn các rạn san hô, các vành đai rừng ngập mặn để tăng cường khả năng chống chịu lũ lụt ven biển và nước biển dâng, là tuyến phòng thủ đầu tiên giúp tiêu tán năng lượng sóng.
Việc gây dựng các thảm thực vật có thể giảm nguy cơ sạt lở, tạo các vành đai xanh để bổ sung nước ngầm ở những khu vực khô hạn, khan hiếm nước… Đây chính là cách áp dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên, tiếp cận hệ sinh thái để giải quyết các thách thức về môi trường, khí hậu và phát triển kinh tế.
Việt Nam chính thức phê chuẩn Công ước Đa dạng sinh học ngày 17/10/1994. Từ đó đến nay, Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong công cuộc bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Đó là xây dựng được hệ thống các cơ quan quản lý, khung chính sách và pháp luật về đa dạng sinh học; hệ thống các khu bảo tồn đã được thành lập; các loài động thực vật nguy cấp quý hiếm được bảo vệ bằng pháp luật và thông qua các chương trình hành động; tiếp thu, đẩy mạnh thực hiện các vấn đề mới của bảo tồn đa dạng sinh học như an toàn sinh học, tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích có được từ việc sử dụng nguồn gene…
Ðến nay, chúng ta đã thành lập được 173 khu bảo tồn, trong đó gồm 33 vườn quốc gia; 66 khu dự trữ thiên nhiên; 18 khu bảo tồn loài và sinh cảnh; 56 khu bảo vệ cảnh quan. Cả nước cũng có 9 khu đất ngập nước được công nhận là khu Ramsar thế giới; 23 tỉnh phê duyệt quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học cấp tỉnh, thành phố...
Đặc biệt là nhận thức về tầm quan trọng, vai trò của đa dạng sinh học đối với cuộc sống và phát triển bền vững đất nước ngày càng được nâng cao.
Điển hình như Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm, sau hơn 10 năm được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới, đã bảo tồn khá nguyên vẹn giá trị hệ sinh thái rừng, biển, thể hiện ở sự đa dạng về loài và nguồn gene. Theo đó, các hệ sinh thái rạn san hô, cỏ biển, rong biển được bảo tồn khá tốt. Tại vùng lõi Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm, từ chỗ người dân bắt rùa, thu trứng rùa để ăn, thì nay người dân đã chung tay, góp sức trong công cuộc tái phục hồi và bảo vệ loài bò sát cổ quý hiếm này. Có một thời gian, san hô bị khai thác để làm cảnh, làm vật liệu xây dựng, thì nay người dân đã chủ động thực hiện trọn vẹn công nghệ phục hồi san hô. Từ chỗ cua đá bị khai thác bừa bãi, đến nay nguồn lợi này đã được quản lý, khai thác, bảo tồn một cách hiệu quả với sự vào cuộc của đại diện bốn lực lượng gồm: Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và người dân địa phương.
Việt Nam cũng khuyến khích áp dụng các giải pháp công trình có hiệu quả và bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường tự nhiên; thúc đẩy việc thực hiện các mô hình bảo tồn và sử dụng bền vững, áp dụng tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý tổng hợp đới bờ, lưu vực sông, quản lý rừng bền vững, chú trọng vai trò và quyền lợi của cộng đồng.
Hưởng ứng Ngày quốc tế Đa dạng sinh học năm 2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có những chỉ đạo nghiên cứu và áp dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên, tiếp cận hệ sinh thái trong quá trình xây dựng các quy hoạch cấp quốc gia, vùng, tỉnh.
Các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố, các tổ chức chính trị - xã hội đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động người dân triển khai các biện pháp, hoạt động nhằm phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái, ứng phó biến đổi khí hậu. Ðồng thời tăng cường an ninh lương thực, bảo vệ tài nguyên nước tại nơi mình sinh sống. Các địa phương tiếp tục đầu tư kinh phí, đẩy mạnh công tác xã hội hóa về bảo vệ thiên nhiên và đa dạng sinh học; thành lập và quản lý hiệu quả các khu bảo tồn thiên nhiên; phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái; bảo tồn các loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ, bảo tồn nguồn gen; kiểm soát nạn săn bắt, buôn bán, tiêu thụ động vật hoang dã trái phép; quản lý sinh vật ngoại lai; thúc đẩy việc xây dựng và thực hiện các mô hình kinh tế sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên…