|
Kết quả điều tra, khảo sát, lấy mẫu và phân tích nguồn nước tại 292 làng nghề từ năm 2017-2020 cho thấy, có 139 làng nghề ô nhiễm nghiêm trọng (chiếm 47,6%). |
Với hàm lượng các chất ô nhiễm rất cao mà không hề được xử lý, việc xả thẳng khối lượng lớn nước thải ra môi trường đã khiến hệ thống nước mặt cũng như nước ngầm tại các làng nghề Hà Nội rơi vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng trong nhiều năm qua. Theo kết quả điều tra, khảo sát, lấy mẫu và phân tích nguồn nước tại 292 làng nghề từ năm 2017-2020, có 139 làng nghề ô nhiễm nghiêm trọng (chiếm 47,6%), 95 làng nghề ô nhiễm (chiếm 32,5%), 58 làng nghề không ô nhiễm về nguồn nước (chiếm 19,9%); tỷ lệ nước thải làng nghề được thu gom xử lý chỉ chiếm khoảng 5,2%.
Hiện, thành phố có 70 cụm công nghiệp đang hoạt động; trong đó mới chỉ có 26 cụm đã có hệ thống xử lý nước thải, 11 cụm đang tiến hành triển khai xây dựng (dự kiến năm 2020-2021 hoàn thành và đi vào hoạt động), còn lại 33 cụm chưa xây dựng. Đối với các đơn vị vào sản xuất trong cụm công nghiệp, tuy đã có hệ thống xử lý nước thải của từng hộ gia đình nhưng phần lớn đều mang tính chất đối phó với cơ quan quản lý, dẫn đến nước thải chưa được xử lý cơ bản đã xả thải trực tiếp ra môi trường.
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, hàm lượng các chất ô nhiễm theo các chỉ số COD, BOD5 hay tổng số vi khuẩn Coliform trong nước thải làng nghề đều vượt tiêu chuẩn cho phép hàng chục lần, cá biệt, có nơi lên tới hàng trăm, ngàn lần. |
Tại các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, như các làng: Dương Liễu, Cát Quế, Minh Khai thuộc huyện Hoài Đức lượng nước thải sản xuất có nơi ước tính lên đến 7.000m3/ngày, nơi ít nhất cũng thải ra môi trường 1.000m3 mỗi ngày/làng nghề.
Các chất thải rắn làng nghề từ quá trình chế biến nông sản thực phẩm (làm bún, làm bánh cuốn, sản xuất tinh bột…), sản xuất đồ thủ công mĩ nghệ, tái chế phế liệu (tái chế kim loại, giấy, nhựa…), dệt may, đồ da, sản xuất gốm sứ và vật liệu xây dựng… phần lớn không được phân loại để tái sử dụng, mà được vận chuyển về khu xử lý chất thải Nam Sơn (huyện Sóc Sơn) hoặc Xuân Sơn (thị xã Sơn Tây) để xử lý.
Do giá thu gom rác thải công nghiệp nguy hại khá cao từ 2.000 - 4.000 đồng/kg, nên vẫn còn hiện tượng người dân đổ trộm hoặc tự ý đốt bỏ rác thải ở một số nơi, gây ô nhiễm môi trường và mất cảnh quan khu vực nông thôn.
UBND xã Dương Liễu, huyện Phú Xuyên cho biết, tình hình các hộ sản xuất củ dong, sắn đang xả thải trực tiếp ra môi trường, gây ô nhiễm, tắc nghẽn cống rãnh ngầm khu dân cư vẫn diễn ra nhiều năm nay, gần như không thể khơi thông vì quá tốn kém chi phí. UBND xã đã tổ chức tuyên truyền, mời các hộ sản xuất ký cam kết, tuy nhiên, các hộ không chấp hành. Với quy mô số lượng tới 1.000 tấn dong thải ra môi trường/ngày khiến ô nhiễm ngày càng trầm trọng, người dân kiến nghị liên tục nhưng vẫn chưa có cách giải quyết triệt để.
Một ví dụ khác là nhóm nghề tái chế chất thải, đặc biệt là tái chế chất thải nhựa, chủ yếu tập trung tại 2 làng nghề Trung Văn và Triều Khúc, nằm ở vị trí gần trung tâm thủ đô. Công nghệ thu gom tái chế tại làng nghề là sử dụng nước trong một số công đoạn như xay nghiền, tạo hạt và làm sạch phế liệu. Các chất thải nhựa được thu gom và phân loại; sau đó, nguyên liệu được xay rửa (hoặc xay khô) và phơi khô, tạo hạt. Để sản xuất túi ni lông, người ta dùng hạt nhựa này bổ sung thêm bột màu theo tỷ lệ 0,1% vào thùng chứa, sau đó gia nhiệt nấu chảy nhựa và đẩy đến bộ phận cán kéo, tạo màng bằng trục vít. Quá trình sản xuất dây thừng cũng tương tự như sản xuất túi ni lông. Nhựa sau khi ép đùn thành sợi được làm nguội bằng nước lạnh qua một hệ thống trục nén, sau đó được gia nhiệt lần hai để kéo dãn sản phẩm, cuối cùng được đưa qua hệ thống trục cán trước khi được cuộn thành sản phẩm.
Nhìn chung, quy trình sản xuất của 2 làng nghề trên vẫn theo phương pháp thủ công. Các chất thải tập hợp được cơ sở phân loại, rồi xay rửa (hoặc xay khô), không có hệ thống sấy mà được phơi khô ngoài trời và đưa vào thùng chứa tạo hạt gây ô nhiễm môi trường.
Ngoài ra còn vấn đề ô nhiễm khí thải. Điển hình tại xã Hòa Bình, huyện Thường Tín - làng nghề chế tác các sản phẩm từ xương và sừng động vật đã tồn tại gần 650 năm, bầu không khí lúc nào cũng đặc quánh bụi và hôi nồng nặc. Không gian sản xuất chật hẹp giữa khu dân cư đông đúc, trong khi đó, chất thải không được thu gom, xử lý theo hệ thống riêng biệt mà chủ yếu đốt thủ công để tiêu hủy.
Hay như thôn Nhân Hiền, xã Hiền Giang, huyện Thường Tín, nổi tiếng với nghề chạm khắc tượng phật, phù điêu, đồ trang trí trong chùa thì tiếng ồn, bụi… cũng đã gây ô nhiễm ảnh hưởng đến môi trường sống của người dân xung quanh.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do phần lớn các làng nghề trên địa bàn thành phố đã tồn tại hàng trăm năm nay cùng với sự hình thành, phát triển của làng xã. Các làng nghề không chỉ có hoạt động kinh tế mà còn là văn hóa, phong tục, tập quán sản xuất gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân. Vì vậy, việc thay đổi tư duy, phương thức sản xuất của các hộ dân trong các làng nghề theo xu hướng sản xuất sạch hơn, hạn chế ô nhiễm môi trường gặp nhiều khó khăn.
Các hộ sản xuất phân tán trong làng nghề, phần lớn tận dụng diện tích đất ở để làm cơ sở sản xuất, quy mô sản xuất nhỏ, tự phát, việc sản xuất xen lẫn sinh hoạt gây nhiều bất cập trong công tác bảo vệ môi trường; đặc biệt là công tác thu gom, xử lý nước thải.
Nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường do hoạt động sản xuất làng nghề, TP Hà Nội đã ban hành nhiều chính sách như hỗ trợ 100% kinh phí để xây dựng công trình trạm xử lý chất thải đầu mối của khu thu gom xử lý chất thải tập trung, khu tập kết chất thải rắn; đề án “Bảo vệ môi trường làng nghề trên địa bàn TP Hà Nội đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030”, trong đó xác định bố trí kinh phí từ ngân sách xử lý ô nhiễm môi trường tại các làng nghề truyền thống. Ðồng thời, xây dựng nhà máy xử lý nước thải làng nghề tại các huyện Hoài Ðức, Thanh Oai, Mỹ Ðức, Phú Xuyên... với công nghệ xử lý sinh học khép kín và dây chuyền thiết bị tự động hóa được nhập khẩu từ các nước châu Âu... Ngoài ra, thành phố cũng đặt hàng các nhà khoa học triển khai các công trình nghiên cứu xử lý chất thải tại các làng nghề.
Các chuyên gia nhận định, các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, nước thải là nguồn gây ô nhiễm chính. Để xử lý, các hộ gia đình có thể lựa chọn hệ thống hầm biogas vừa cung cấp khí gas cho sinh hoạt, vừa giảm được 40-50% hàm lượng hữu cơ trong nước thải, giúp giảm ô nhiễm. Đối với làng nghề, nước thải từ các hộ sản xuất sau khi được xử lý sơ bộ, tách tạp chất mới được đưa ra cống thải chung. Hệ thống cống tiếp tục bố trí các hố gas để lắng, tách tạp chất và đưa vào hệ thống xử lý nước thải chung.
Theo kế hoạch xử lý ô nhiễm môi trường các làng nghề trên địa bàn TP Hà Nội đã được Sở Công Thương đề xuất, đến hết năm 2020, thành phố sẽ bố trí khoảng 750 tỷ đồng xây dựng hệ thống xử lý môi trường tại 50 làng nghề trọng điểm. Trong giai đoạn 2020 - 2030, dành 600 tỷ đồng xây dựng hệ thống xử lý môi trường tại 30 làng nghề khác, đồng thời quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề; nghiên cứu xây dựng thí điểm mô hình hệ thống quản lý môi trường tại làng nghề; hoàn thành Đề án bảo vệ môi trường làng nghề đến năm 2020, định hướng đến năm 2050…