Các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu
08:16 - 25/04/2022
(MTNT)- Biến đổi khí hậu mà biểu hiện chính là sự nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng đã tạo nên các hiện tượng thời tiết cực đoan hiện nay. Đây là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ XXI. Việt Nam sẽ ứng phó với biến đổi khí hậu trên nguyên tắc công lý, công bằng, với cách tiếp cận toàn cầu và toàn dân; dựa trên thể chế đồng bộ, chính sách, pháp luật hiệu lực và hiệu quả, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy nội lực và hợp tác quốc tế.
Các bộ, ngành địa phương hiện đang khẩn trương xây dựng quy hoạch lồng ghép việc thích ứng với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh.


Để chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, Việt Nam sẽ hoàn thiện thể chế, phát huy tiềm năng và nguồn lực ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu bao gồm: Xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về biến đổi khí hậu trước năm 2030; truyền thông, nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia của cộng đồng trong ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển nguồn nhân lực; nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo; huy động nguồn lực tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu; đẩy mạnh hợp tác quốc tế và ngoại giao khí hậu trong ứng phó với biến đổi khí hậu.
 
 
Nhận thức rõ tính nghiêm trọng của BĐKH, Việt Nam đã phê duyệt Thỏa thuận Paris về BĐKH tại Hội nghị lần thứ 21 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH (COP21) từ năm 2015. Với những cam kết mạnh mẽ và những đóng góp có trách nhiệm của Việt Nam tại Hội nghị COP26 đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và mở ra nhiều cơ hội hợp tác về tăng trưởng ít phát thải, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu.
 
 
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp các bộ, ngành liên quan và UBND tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL xây dựng hoàn thiện và trình Chính phủ Đề án đảm bảo an ninh tài nguyên nước quốc gia. Một trong những mục tiêu cụ thể đến năm 2030 của đề án là ưu tiên giải quyết, khắc phục hiệu quả tình trạng hạn hán, thiếu nước vào mùa khô tại vùng ĐBSCL. Một trong những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, trọng điểm đã được xác định là xây dựng và thực hiện các giải pháp tổng thể tăng cường khả năng ứng phó tác động BĐKH và các rủi ro khác liên quan đến nước. Đặc biệt, tăng cường khả năng trữ lũ, giữ nước ngọt, công trình bổ sung nhân tạo nước dưới đất với quy mô phù hợp với từng vùng, từng lưu vực sông, nhằm khắc phục hiệu quả tình trạng hạn hán thiếu nước vào mùa khô vùng ở ĐBSCL, Nam Trung bộ, Tây Nguyên, vùng sâu, vùng xa và hải đảo.
 
 
Theo đó, đến năm 2025, 100% lưu vực sông lớn, quan trọng có quy hoạch tổng hợp lưu vực sông; đảm bảo nguồn nước góp phần nâng tỷ lệ sử dụng nước sạch cho mục đích sinh hoạt của dân cư đô thị đạt 95% - 100% và 65% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch; kiểm soát cơ bản 90% các hoạt động khai thác, sử dụng nước; nâng cao năng lực khai thác, sử dụng nước và giảm tối đa thất thoát nước từ hệ thống các công trình thủy lợi; giảm tỷ lệ thất thoát nước trong hoạt động cấp nước xuống 10%.
 
 
Khắc phục hiệu quả tình trạng hạn hán, thiếu nước vào mùa khô ở các lưu vực sông, các vùng khó khăn trong tiếp cận nguồn nước, đặc biệt là các vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, vùng sâu, vùng xa và các đảo; nâng cao hiệu quả, giảm tổn thất sử dụng tài nguyên nước, đạt hiệu suất sử dụng nước tương đương các nước tiên tiến trong khu vực; đánh giá đúng giá trị kinh tế của nước trong các hoạt động sản xuất và phát triển kinh tế-xã hội.
 
 
Bảo vệ, kiểm soát, ngăn chặn và giảm thiểu tối đa tình trạng gia tăng suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước, phấn đấu đến năm 2030 thu gom, xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trước khi xả ra môi trường đạt từ 30% tổng lượng nước thải tại các đô thị loại II trở lên và 10% từ các đô thị từ loại V trở lên; cải thiện, phục hồi tối thiểu 20% các nguồn nước quan trọng bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm theo hướng xã hội hóa, đặc biệt là các đoạn sông chảy qua khu vực dân cư tập trung, các nguồn nước có vai trò quan trọng cho cấp nước sinh hoạt, các hoạt động phát triển kinh tế-xã hội…
 
 
Bên cạnh đó, các bộ, ngành địa phương trên cả nước hiện đang khẩn trương xây dựng quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm, trong đó lồng ghép việc thích ứng với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh nhằm đạt các mục tiêu báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) trong giai đoạn 2021-2030 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt.
 
 
Hay như Sở Tài nguyên-Môi trường thành phố Hồ Chí Minh tập trung xây dựng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ truyền thông và lực lượng tuyên truyền viên nòng cốt. Sở cũng phối hợp các đơn vị liên quan biên soạn và phát hành các tài liệu tuyên truyền về giảm sử dụng túi ni-lông tại các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại và cộng đồng dân cư. Bên cạnh đó, Sở đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục về kiến thức và kỹ năng bảo vệ môi trường cho học sinh các cấp học, cộng đồng dân cư về bảo vệ môi trường và ứng phó BĐKH thông qua các phong trào, hội thi, chiến dịch ra quân về môi trường...
 
 
Việt Nam cũng đề ra nhóm nhiệm vụ nâng cao khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội, đảm bảo sinh kế bền vững; nhóm nhiệm vụ, giải pháp giảm thiểu thiệt hại do thiên tai và khí hậu cực đoan gia tăng do biến đổi khí hậu.
 
 
Tiêu biểu như tỉnh Bến Tre đã triển khai các công trình trọng điểm về thủy lợi ứng phó xâm nhập mặn thông qua sự hỗ trợ về kinh phí của Trung ương và các tổ chức quốc tế. Đến nay, các công trình được đầu tư đã phát huy hiệu quả ngăn mặn, trữ ngọt trên địa bàn tỉnh.
 
 
Hiện dự án hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre (giai đoạn 1), tiến độ thực hiện đạt hơn 98% giá trị hợp đồng. Các cống cơ bản hoàn thành, chuẩn bị tổng nghiệm thu đưa vào sử dụng. Riêng Dự án hệ thống thủy lợi Nam Bến Tre đã nghiệm thu gói thầu số 2, 3; đối với gói thầu số 1, khối lượng thực hiện đạt 91% giá trị hợp đồng…
 
 
Thực hiện đồng bộ 6 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chính theo Nghị quyết 120 của Chính phủ phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng BĐKH, tỉnh xoay trục phát triển kinh tế theo hướng Đông, phát triển phù hợp với điều kiện nước mặn, phát triển kinh tế biển, khai thác tiềm năng khu vực ven biển.
 
 
Cùng với đó, tỉnh đã công bố và phổ biến kịch bản BĐKH giai đoạn 2021- 2030 đến các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh; UBND các huyện, các xã trên toàn tỉnh. UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 2790/KH-UBND ngày 27/5/2021, cơ cấu lại ngành nông nghiệp tỉnh giai đoạn 2021 - 2025 theo hướng phát triển nông nghiệp bền vững, đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp hiện đại, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ thích ứng BĐKH.
 
 
Năm 2021, tỉnh đã nhân rộng nhiều mô hình nông nghiệp thích ứng BĐKH, góp phần nâng cao năng lực thích ứng BĐKH, xâm nhập mặn như: Mô hình phục hồi vườn chôm chôm bị ảnh hưởng hạn mặn của mùa khô năm 2020 tại xã Sơn Định, huyện Chợ Lách, với giải pháp ứng dụng khoa học kỹ thuật để phục hồi. Theo đó, cắt tỉa cành khô và cành chết, tỉa bỏ trái không hiệu quả, giúp cây tập trung dinh dưỡng, mau phục hồi, giảm thiểu cây bị suy kiệt; nạo vét mương trong vườn, tận dụng nguồn nước mưa và nước ngọt đưa vào mương, thường xuyên tưới cho cây, rửa mặn cho đất do muối tích tụ, giúp bộ rễ cây sớm phục hồi. Sau đó, bón vôi nung (CaO; liều lượng 3 - 5kg/gốc) để giải phóng muối (Na+) ra khỏi keo đất tạo thuận lợi cho việc rửa mặn, bổ sung chất hữu cơ, lân và kali nhằm tăng hàm lượng K+ trong cây, từ đó hạn chế sự hấp thu Na+ vào cây, hạn chế cây ngộ độc do Na+.
 
 
Do ảnh hưởng bởi mặn làm bộ rễ cây bị hư hại nên cần sử dụng các chế phẩm sinh học để tưới vào đất, kích thích cây ra rễ. Khi cây có bộ rễ mới thì cần bón phân lân, NPK (lượng phân bón áp dụng theo quy trình kỹ thuật bón phân) và bổ sung các dinh dưỡng trung, vi lượng để giúp cây sớm phục hồi. Đặc biệt, cào lớp lá và xới nhẹ quanh gốc trước khi bón phân, sau đó ủ lại gốc, kết hợp với việc xử lý Trichoderma hoặc một số chế phẩm có chứa vi sinh vật giúp phân hủy lớp lá trên mặt liếp tạo nên lớp hữu cơ giữ ẩm cho đất trong điều kiện hiện tại. Tăng cường phun phân bón lá có chất canxi, magiê, silic và các dạng phân chứa hàm lượng hữu cơ cao K-humat, Humic… giúp cây tăng sức đề kháng.
 
 
Hay mô hình trình diễn giống lúa chịu mặn thích ứng BĐKH cho các xã vùng ven biển. Mô hình áp dụng các giống lúa chịu mặn tốt, chuyển đổi trồng lúa xen canh với nuôi tôm, giúp tăng thu nhập trên cùng một diện tích; mô hình nuôi tôm càng xanh toàn đực thích ứng BĐKH gắn với tiêu thụ sản phẩm…
 
 
Đến nay, tỉnh đã xây dựng vùng sản xuất dừa hữu cơ tập trung với diện tích hơn 13.125ha; trong đó, diện tích đạt chứng nhận có hơn 7.249ha. Tỉnh cũng đang triển khai xây dựng thí điểm 6 vùng sản xuất dừa tập trung, bao gồm: 5 vùng sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ (diện tích 1.500ha); 1 vùng sản xuất dừa uống nước (diện tích 20ha). Ngoài ra, năm 2021, tỉnh đã trồng được khoảng 700 ngàn cây phân tán và gần 35ha rừng phòng hộ và đặc dụng.
 
 
Ngoài ra, Việt Nam còn giảm phát thải khí nhà kính bao gồm các nhiệm vụ chung và giảm phát thải khí nhà kính theo các lĩnh vực cụ thể gồm: Năng lượng; nông nghiệp, lâm nghiệp, sử dụng đất và thay đổi sử dụng đất; chất thải; các quá trình công nghiệp và sử dụng sản phẩm công nghiệp.
 
 
Điển hình như Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành kế hoạch hành động với các mục tiêu giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính đối với các lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng, phát triển công trình xây dựng, đô thị, kỹ thuật đô thị phù hợp. Hiện, Sở đã hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, các công trình xây dựng đầu tư cải tiến công nghệ. Đồng thời, nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá và công nhận tòa nhà xanh, tiết kiệm năng lượng.
 
 
Sở Giao thông vận tải thành phố cũng tăng cường mở rộng mảng xanh, thắt chặt kiểm soát khí thải phương tiện tham gia giao thông và đặc biệt là khuyến khích người dân ưu tiên sử dụng phương tiện công cộng, phương tiện giao thông xanh… Đối với hoạt động sản xuất, Sở Tài nguyên-Môi trường thắt chặt công tác hậu kiểm xử lý chất thải cũng được xem là giải pháp hữu hiệu giúp ngăn chặn nguy cơ tái ô nhiễm môi trường, nhất là môi trường nước sông, kênh rạch trên địa bàn thành phố.


Đại hội XIII của Đảng cũng đã xác định: Việt Nam cần “chủ động giám sát, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế xanh, cácbon thấp… Nâng cao tính chống chịu và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của hệ thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế… Đến năm 2030, cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu”. Do đó, thích ứng với biến đổi khí hậu và mục tiêu phát thải ròng bằng "0" là cơ hội để Việt Nam phát triển bền vững, ưu tiên cao nhất trong mọi quyết sách phát triển, tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của mọi cấp, mọi ngành, mọi doanh nghiệp và mọi người dân.

Tuệ Đức
Thêm bình luận :
Họ và tên
Email

Bài đọc nhiều nhất

Nông dân với chương trình môi trường nông thôn