Tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam
10:47 - 25/04/2021
(MTNT)- Ở Việt Nam, do tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH), tần suất xuất hiện các hiện tượng thời tiết cực đoan diện rộng ngày càng dày, tác động xấu đến nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội và môi trường. 
Bão lớn cấp 4, 5 diễn ra thường xuyên hơn trong vòng 35 năm trở lại đây và đã dịch chuyển dần xuống phía Nam trong vòng 5 thập kỷ qua.


Trong năm 2019-2020 ở ĐBSCL và miền Trung, hạn lại tiếp tục tái diễn với quy mô lớn và mức độ khốc liệt hơn so với đợt hạn hán xâm nhập mặn năm 2016. Năm 2020, nguồn nước trên các sông suối khu vực Trung Bộ và Tây Nguyên tiếp tục suy giảm và thiếu hụt so với trung bình nhiều năm cùng kỳ từ 35-70%, một số sông thiếu hụt trên 80%. Bão lớn cấp 4, 5 diễn ra thường xuyên hơn trong vòng 35 năm trở lại đây và đã dịch chuyển dần xuống phía Nam trong vòng 5 thập kỷ qua.
 
 
Các hiện tượng bất thường của khí hậu, thời tiết đã xảy ra liên tục ở nhiều vùng, gây ra sạt lở, lũ ống lũ quét trên diện rộng với sức tàn phá to lớn ở Yên Bái năm 2017, Thanh Hóa các năm 2018, 2019. Mưa lớn lịch sử trong vòng 60 năm gây thiệt hại to lớn cho Hà Giang và một số địa phương ở miền Bắc. Đặc biệt, năm 2020, miền Trung đã phải gồng mình gánh chịu thiên tai: Lũ chồng lũ, bão chồng bão với những mất mát vô cùng to lớn về người và tài sản.
 
 
Tác động do BĐKH đang trở thành nguyên nhân gây ra những thách thức an ninh khí hậu, nguy cơ tiềm ẩn đối với ổn định và phát triển đất nước, tạo ra những làn sóng di cư. Thống kê gần đây cho thấy trong 10 năm trở lại đây, đã có 1,7 triệu người đã di cư ra khỏi ĐBSCL, trong khi chỉ có 700.000 người mới chuyển đến, tỉ lệ di cư này gấp hai lần trung bình cả nước.
 
 
Theo kịch bản BĐKH, nước biển dâng và các nghiên cứu khác cho thấy xu hướng gia tăng BĐKH là không thể tránh khỏi trong tương lai. Đến năm 2100, nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam có thể tăng từ 0,6oC - 4oC; lượng mưa có xu hướng tăng tập trung vào mùa mưa và giảm vào mùa khô; nước biển dâng từ 36 - 100 cm thay đổi theo kịch bản và vị trí địa lý.
 
 
Vùng núi phía Bắc và ở miền Trung sẽ chịu nhiều rủi ro hơn do lũ quét và sạt lở đất khi chế độ mưa thay đổi, với tần suất và cường độ mưa lớn ngày càng nhiều. Trong khi đó, những vùng chịu rủi ro cao hơn và dễ bị tổn thương hơn do hạn hán và thiếu nước, tăng hoang mạc hoá ở Việt Nam, bao gồm: Vùng duyên hải Trung Bộ và Nam Trung Bộ, đồng bằng Bắc Bộ, vùng trung du và khu vực Tây Nguyên. Đối với ĐBSCL, các trận lũ lớn xảy ra vào những năm giữa thế kỷ 21 kết hợp với nước biển dâng khoảng 30 cm sẽ làm cho diện tích ngập lụt tăng trên 25% so với diện tích ngập lụt trong trận lũ lịch sử năm 2000, diện tích ngập lũ có thể chiếm gần 90% diện tích tự nhiên ĐBSCL. Ngoài ra, ĐBSCL cũng chịu tác động của sụt lún đất do lún địa chất và khai thác nước ngầm quá mức. Trong vòng 10 năm qua, riêng vùng bán đảo Cà Mau có tốc độ sụt lún khoảng 20 cm, có những điểm tại thành phố Cần Thơ và tỉnh Bạc Liêu bị sụt lún đến 50 cm.
 
 
Các lĩnh vực có mức độ rủi ro cao trước BĐKH là nông nghiệp và an ninh lương thực, các hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học, tài nguyên nước, sức khỏe cộng đồng, nơi cư trú và hạ tầng kỹ thuật do đây là những ngành, lĩnh vực có mức độ phơi bày và độ nhạy cao với thiên tai và các hiện tượng khí hậu cực đoan. Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), diện tích đất nông nghiệp chiếm khoảng 35% tổng diện tích của cả nước và tạo ra khoảng 47% việc làm, nhiều hộ gia đình vẫn dựa vào nông nghiệp để bảo đảm an ninh lương thực.
 
 
Đến năm 2100, nếu mực nước biển dâng 100 cm, 6,3% diện tích đất của Việt Nam sẽ bị ngập lụt, 4% hệ thống đường sắt, 9% hệ thống đường quốc lộ và 12% hệ thống đường tỉnh lộ sẽ bị ảnh hưởng; trên 10% diện tích vùng đồng bằng sông Hồng và tỉnh Quảng Ninh, trên 2,5% diện tích thuộc các tỉnh ven biển miền Trung và trên 20% diện tích TP. HCM có nguy cơ bị ngập, ảnh hưởng trực tiếp đến trên 9% dân số vùng đồng bằng sông Hồng và tỉnh Quảng Ninh, gần 9% dân số các tỉnh ven biển miền Trung và khoảng 7% dân số TP. HCM; riêng ĐBSCL sẽ có khoảng 39% diện tích bị ngập, ảnh hưởng gần 35% dân số, nguy cơ mất đi 40,5% tổng sản lượng lúa của cả vùng.
 
 
Ở nước ta đã xuất hiện nhiều mô hình thích ứng với BĐKH có tính sáng tạo, trong đó có mô hình sinh kế thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng, các mô hình thích ứng thông minh. Các mô hình được xây dựng trên cơ sở kinh nghiệm, sáng kiến của bản địa và đã có sự chọn lọc, thích nghi với đặc điểm văn hóa, phù hợp với điều kiện tự nhiên và xã hội của cộng đồng.
 
 
Điển hình tại ĐBSCL, mô hình thích ứng thông minh theo tự nhiên, chủ động thích ứng với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn đã được triển khai. Hiệu quả của việc phân vùng, chuyển đổi sản xuất ở ĐBSCL theo phương châm thuận thiên đã được chứng minh qua đợt hạn mặn kỷ lục 2019-2020 vừa qua, qua đó chuyển hóa được thách thức thành cơ hội cho phát triển, giảm thiểu thiệt hại cho sản xuất, kinh doanh. Nếu tính thiệt hại về riêng diện tích lúa đợt hạn mặn vừa qua chỉ bằng khoảng 10% so với đợt hạn mặn nặng nề năm 2015-2016.
 
 
Nhận thức rõ tính nghiêm trọng của BĐKH, các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đã phê duyệt Thỏa thuận Paris về BĐKH tại Hội nghị lần thứ 21 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH (COP21) năm 2015. Theo đó, các bên tham gia Thỏa thuận có trách nhiệm xây dựng và triển khai Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH. Ngày 20/7/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 1055/QĐ-TTg. Kế hoạch đặt ra mục tiêu nhằm giảm thiểu tính dễ bị tổn thương và rủi ro trước những tác động của BĐKH thông qua việc tăng cường khả năng chống chịu, năng lực thích ứng của cộng đồng, các thành phần kinh tế và hệ sinh thái; thúc đẩy việc lồng ghép thích ứng với BĐKH vào hệ thống chiến lược, quy hoạch.
 
 
Các nhóm nhiệm vụ, giải pháp được đề ra phân theo 3 nhóm, tập trung vào 7 nhóm, lĩnh vực: Tăng cường công tác quản lý nhà nước và nguồn lực; Nông nghiệp; Phòng chống thiên tai; Môi trường và đa dạng sinh học; Tài nguyên nước; Cơ sở hạ tầng; các lĩnh vực khác, gồm sức khoẻ cộng đồng, lao động-xã hội, văn hoá-thể thao-du lịch. Các lĩnh vực được lựa chọn và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên căn cứ vào mức độ tác động của BĐKH và mục tiêu của kế hoạch thích ứng quốc gia; không phân chia nhiệm vụ theo bộ, ngành để tránh sự trùng lặp, chồng lấn trong các lĩnh vực.
 
 
Cụ thể 3 nhóm nhiệm vụ này như sau: Một là, nâng cao hiệu quả thích ứng với BĐKH thông qua tăng cường quản lý nhà nước, thúc đẩy lồng ghép thích ứng với BĐKH vào hệ thống chiến lược, quy hoạch, với các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể được đề ra. Trong đó, có việc giám sát và đánh giá nhằm nâng cao hiệu quả thích ứng, định kỳ cập nhật kịch bản BĐKH, xây dựng các kịch bản về tác động, tổn thất và thiệt hại, thiết lập và vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia và công cụ hỗ trợ quản lý, xây dựng các cơ chế, chính sách huy động và phân bổ nguồn lực về tài chính…
 
 
Hai là, tăng cường khả năng chống chịu và nâng cao năng lực thích ứng của cộng đồng, các thành phần kinh tế và hệ sinh thái thông qua đầu tư cho các hành động thích ứng, khoa học và công nghệ, nâng cao nhận thức, sẵn sàng điều chỉnh trước những thay đổi của khí hậu với các nhiệm vụ giải pháp cụ thể.
 
 
Ba là, giảm nhẹ rủi ro thiên tai và giảm thiểu thiệt hại, sẵn sàng ứng phó với thiên tai và khí hậu cực đoan gia tăng do BĐKH với 5 nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, trong đó, có việc cải thiện hệ thống quản lý rủi ro thiên tai, thúc đẩy giảm nhẹ rủi ro thiên tai, chú trọng giải pháp quản lý thiên tai dựa vào cộng đồng, phát huy tri thức địa phương trong phòng tránh thiên tai, triển khai các giải pháp phòng chống thiên tai kịp thời và hiệu quả, chống sạt lở bờ sông, bờ biển.
 
 
Trong các giải pháp thích ứng BĐKH dựa vào cộng đồng, Kế hoạch quốc gia thích ứng BĐKH chú trọng hỗ trợ, khuyến khích cộng đồng tham gia phát triển lâm nghiệp bền vững, nhân rộng mô hình phục hồi hệ sinh thái rừng ngập mặn tại các đầm nuôi trồng thủy sản đã bị suy thoái theo hướng lâm-ngư kết hợp dựa vào cộng đồng, hỗ trợ phát triển mô hình sinh kế cộng đồng dựa vào rừng theo hướng thích ứng với BĐKH. Ưu tiên bảo tồn nguồn gene quý, các loài có nguy cơ bị tuyệt chủng và các hệ sinh thái quan trọng. Bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống, tri thức địa phương trong thích ứng BĐKH; tăng cường sự tham gia của cộng đồng địa phương trong giám sát, quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học…
Trần Anh
Thêm bình luận :
Họ và tên
Email

Bài đọc nhiều nhất

Nông dân với chương trình môi trường nông thôn