Giải pháp ứng phó xâm nhập mặn tại ĐBSCL
10:52 - 19/07/2016
(MTNT)- Hiện nay xâm nhập mặn ngày càng sâu vào đất liền, độ mặn tăng cao và thời gian mặn kéo dài hơn đã ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh vùng ven biển của Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). 
Xâm nhập mặn do hiện tượng El Nino đang ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long (Ảnh minh họa, nguồn Internet)

Quý I năm nay, các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước liên tục đưa tin, tường thuật về hiện trạng xâm nhập mặn ở các tỉnh ven biển ĐBSCL. Lịch sử 100 năm qua chưa có năm nào tình trạng xâm nhập mặn lại ảnh hưởng nặng nề đến vựa lúa ĐBSCL như năm nay.
 
 
Xâm nhập mặn xuất hiện sớm gần hai tháng và chưa từng xuất hiện trong lịch sử quan trắc ở ĐBSCL. Nhiều nơi nước mặn vào sâu đất liền tới 70-90 km, sâu hơn trung bình nhiều năm 15-20 km. Kinh tế và đời sống dân sinh của người dân 10/13 tỉnh thành phố như Long An, Tiền Giang, Bến Tre... bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Diện tích lúa thiệt hại từ cuối năm 2015 đến nay gần 160.000 ha, trong đó phần lớn là không có thu hoạch.
 
 
Nguyên nhân của hiện tượng này có cả chủ quan lẫn khách quan. Về khách quan, trước hết là phần lớn các tỉnh, thành phố khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có cao độ tự nhiên thấp. Đây là điểm yếu dễ bị tổn thương nhất do lũ lụt và xâm nhập mặn. Ngoài ra, hiện tượng thời tiết thay đổi do ảnh hưởng của El Nino khiến vùng đất ngày càng bị khô hạn. Lũ không về nhiều khiến cho nước biển tràn ngược lại vào diện tích đất trồng trọt.
 
 
Về nguyên nhân chủ quan, hệ thống thủy lợi ở vùng này không còn phù hợp với tình hình diễn biến của thời tiết. Tại ĐBSCL, mạng lưới nước hiện vẫn chưa được đầu tư đúng mức, 95% kênh rạch được xây dựng từ thời Pháp thuộc, Việt Nam chỉ xây dựng thêm và hoàn chỉnh một số kênh rạch. Thế nên mặc dù được tiếng là vựa lúa lớn nhất cả nước, nền nông nghiệp ĐBSCL hầu hết vẫn phụ thuộc vào mạng lưới nước tự nhiên và rất dễ bị tổn thương trước tình trạng biến đổi khí hậu.
 
 
Tình trạng xây dựng thủy điện và các hoạt động khai thác tài nguyên nước thượng nguồn sông Mekong gây thiếu hụt nguồn nước về hạ lưu, kết hợp với yếu tố nước biển dâng đẩy mặn sâu vào nội đồng.
 
 
Việc khai thác tài nguyên thiếu bền vững, nhất là khai thác nước ngầm quá mức không theo quy hoạch làm suy kiệt nguồn nước ngầm, là một trong những nguyên nhân gia tăng xâm nhập mặn vùng ĐBSCL. Một số tỉnh phân bố sử dụng đất và tổ chức sản xuất vùng kinh tế mặn-lợ-ngọt còn tùy tiện, chưa quy hoạch và thích nghi với biến đổi khí hậu. Đặc biệt là quy hoạch thiếu tính liên kết toàn vùng…
 
 
Ý thức về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng của một bộ phận dân cư còn thấp nên đã xảy ra hiện tượng phá rừng, lấn chiếm đất rừng để nuôi tôm, khai thác lâm đặc sản đã gây thiệt hại, làm cho một số khu rừng ngập mặn bị đảo lộn. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng làm gia tăng mức độ triều cường gây xói lở và xâm nhập mặn trong những năm qua.
 
 
Để khắc phục thực trạng này, cần một giải pháp tổng thể được nghiên cứu đồng bộ, từ việc xây dựng hệ thống dẫn nước, trữ nước và cả việc thay đổi cơ cấu nông nghiệp sao cho phù hợp nhất.
 
 
Giải pháp lâu dài là cần bố trí lại cơ cấu cây trồng phù hợp; đa dạng hóa và phát triển các cây trồng có khả năng thích ứng với tình hình xâm nhập mặn; nghiên cứu chọn tạo các giống cây ăn quả, cây công nghiệp, cây lương thực có khả năng chịu hạn, mặn tốt. Cải tạo hạ tầng kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tập quán sản xuất và sinh hoạt của cư dân ven biển để thích nghi với mực nước biển dâng...
 
 
Trước tiên, cần tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn cho vùng ĐBSCL; đẩy mạnh điều tra, khảo sát, đánh giá tiềm năng nước mặt, nước ngầm trong bối cảnh biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế-xã hội; rà soát, đánh giá, bổ sung các quy hoạch phát triển, đặc biệt là quy hoạch đê sông, đê biển, hồ chứa cho vùng ĐBSCL.
 
 
Theo TS. Tô Văn Trường, nguyên Viện trưởng Quy hoạch thủy lợi miền Nam, thông tin dự báo nếu đến được người dân và nhà quản lý trước 3-6 tháng họ sẽ có kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho hợp lý, tránh xảy ra mất mùa. Theo vị chuyên gia này, El Nino và La Nina có từ rất lâu đời, và thường có chu kỳ dài ngắn khác nhau, nhưng có quy luật khá rõ ràng. Vì vậy các nhà quản lý phải biết đưa các trị số tác động của hai hiện tượng thời tiết này vào quy hoạch ở tần suất bảo đảm để giảm thiểu thiệt hại cho sản xuất và đời sống của người dân.
 
 
Trong việc chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, theo GS- TS Võ Tòng Xuân, trong hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay, nếu chúng ta đón nhận sự xâm nhập mặn này một cách thông minh, tỉnh táo sẽ đem lại lợi ích to lớn cho nông dân. Bởi vùng ngập mặn cũng là hệ sinh thái, tài nguyên thiên nhiên rất tốt nếu chúng ta biết khai thác.
 
 
Ở Indonexia, họ làm thủy lợi ở các vùng ngập mặn ven biển cho nuôi tôm rất tốt.  Họ xây dựng những tuyến kênh cung cấp nước vào và ra cho từng ruộng nuôi tôm. Trong từng vuông tôm có hệ thống tháo nước ra để thanh lọc, xử lý vệ sinh cho ruộng tôm. Trong vùng mặn ven biển họ trồng các loại cây như cây đước để xử lý môi trường, lọc nước, tinh khiết hóa nước vùng ven biển phục vụ cho nuôi trồng.
 
 
Ở ĐBSCL có những vùng ven biển nuôi tôm rất hiệu quả. Ở huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng có vùng nuôi tôm tập trung rộng 11.000 ha. Trước đó người dân trồng lúa, sau khi thu hoạch lúa rồi thì nuôi tép. Khi lúa chín họ thu hoạch và đưa nước mặn vào khi đất còn ẩm. 1 kg tép khô hiện nay trên 1 triệu đồng/kg. Đây là mô hình đang cực kỳ có hiệu quả, tính ra lợi tức gấp 4–5 lần so với trồng lúa! Mô hình tôm – lúa còn đang được nhiều nông dân ở các huyện ven biển khác đang áp dụng nhưng chỉ vài trăm ha, hiện rải rác khá phổ biến.
 
 
Thực tế đã chứng minh, nhiều địa phương ở các vùng ngập mặn của ĐBSCL đã thay đổi cơ cấu sản xuất từ hai vụ lúa sang một vụ lúa, một vụ tôm/cá và thích nghi tốt với biến đổi khí hậu, vừa đảm bảo đời sống của người dân mà lại không tốn quá nhiều chi phí đầu tư ngăn mặn.
 
 
Mô hình nhà nước đầu tư như Indonesia cũng là mô hình để chúng ta nghiên cứu và vận dụng. Tùy từng vùng chúng ta có thể quy hoạch và làm thủy lợi cho phù hợp, có thể canh tác lúa – tôm, hay chuyên canh nuôi tôm và các loại hải sản khác.
 
 
GS. TS. Nguyễn Bảo Vệ - Khoa Nông nghiệp & Sinh học Ứng dụng, Trường Đại Học Cần Thơ cho rằng, nên thay đổi hệ thống canh tác theo hướng cây trồng được canh tác trong mùa mưa có nước ngọt, luân canh với nuôi cá, tôm trong mùa nắng có nước mặn hay lợ. Hiện nay, nông dân đã thực hiện hệ thống canh tác nầy như mô hình lúa–tôm sú, lúa–cá nước lợ... Hệ thống canh tác lúa–tôm sú đã được áp dụng ở vùng nước lợ các tỉnh ven biển Đồng Bằng Sông Cửu Long từ những năm 60. Đây là mô hình có tính đặc thù của những vùng nhiễm mặn theo mùa, đặc biệt ở những vùng mới chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ canh tác lúa một vụ kém hiệu quả như ở Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang. Nét đặc thù của mô hình này là tôm sú được thả nuôi trong mùa khô theo phương thức quảng canh cải tiến (khi nguồn nước trên sông bị nhiễm mặn) và canh tác lúa trong mùa mưa (nước ngọt).
 
 
Cần quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn ven biển đảm bảo ổn định lâu dài. Việc trồng, phục hồi và bảo vệ rừng ngập mặn ven biển nhằm từng bước tạo đai rừng chắn sóng, chống sạt lở bờ biển, tăng cường khả năng hấp thụ khí CO2, bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái ven biển, tạo sinh kế bền vững cho người dân bản địa.
 
 
Nâng cấp, gia cố, xây mới các hồ nước ngọt, phục vụ sinh hoạt và sản xuất của người dân trong bối cảnh hạn hán và xâm nhập mặn gia tăng, nhất là nâng cấp, gia cố, xây mới các đoạn đê sông, đê biển xung yếu ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, tài sản của người dân trong vùng.
 
 
Thực tế, ĐBSCL chỉ cần đảm bảo nước ngọt cho 1 triệu hécta chuyên canh lúa năng suất cao, chất lượng cao cũng đủ để bà con nông dân sống khỏe. Đây là con đường công nghiệp hóa nông nghiệp. Nếu làm hai vụ, mỗi năm ta có ít nhất 12 triệu tấn, nếu ba vụ 18 triệu tấn, có thừa để xuất khẩu. Năm trăm ngàn hécta lúa còn lại, có thể trồng lúa mùa đặc sản và tôm một vụ, giá trị gia tăng cao. Việc đảm bảo nước ngọt cho 1 triệu hécta sẽ nhẹ nhàng hơn nhiều so với việc cứu thêm 500 ngàn hécta nhiễm mặn. Với 500 ngàn hécta nhiễm mặn, khi đã thay đổi cơ cấu sản xuất, chỉ cần cung cấp nước ngọt để pha loãng và nuôi trồng thủy sản nên nhu cầu về nước ngọt sẽ không quá lớn.
 
 
Đã đến lúc Việt Nam phải xây dựng mạng lưới nước cho nông nghiệp, hệ thống này không chỉ giải quyết những vấn đề cấp bách mà sẽ tạo nên những giá trị lâu dài để các ngành nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp và đời sống nhân dân ĐBSCL tiến đến phát triển một cách bền vững.
 
 
Việc xây dựng mạng lưới nước tại một số địa phương, ngoài việc tận dụng các kênh rạch đã có, xây dựng các kênh rạch, hồ chứa để trữ nước ngọt, cần xây dựng một hệ thống ống dẫn nước ngọt thô từ các con sông lớn đến các khu vực cận biển. Đây là giải pháp vừa đảm bảo nước cho nông nghiệp, ngăn mặn, vừa là nguồn cung nước ngọt cho các nhà máy lọc nước phục vụ công nghiệp và cư dân.
 
 
Việc làm đường ống tiện lợi ở chỗ có thể triển khai nhanh, chi phí không quá lớn, đồng thời có thể chủ động cung cấp nước thô cho sản xuất nông nghiệp qua các ống xả nước thô ở từng khu vực, vừa là nguồn nước cho các nhà máy lọc nước phục vụ cư dân. 
Chánh Hưng
Thêm bình luận :
Họ và tên
Email

Bài đọc nhiều nhất

Nông dân với chương trình môi trường nông thôn