|
Hiện, nhiều làng nghề chưa được đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung |
Theo số liệu thống kê của Sở Công thương Quảng Bình hiện có 28 làng nghề, làng nghề truyền thống được công nhận với trên 29.770 cơ sở sản xuất, thu hút trên 57.610 lao động tham gia.
Các làng nghề truyền thống sản xuất ổn định đã góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn. Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển cũng đặt ra cho các làng nghề, làng nghề truyền thống Quảng Bình những yêu cầu bức thiết trong công tác bảo vệ môi trường để phát triển bền vững.
Hiện nay, công tác quản lý môi trường tại các làng nghề vẫn tồn tại nhiều bất cập do chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định riêng đối với vấn đề bảo vệ môi trường làng nghề theo đặc thù của mỗi loại hình sản xuất.
Mặt khác, các làng nghề tại Quảng Bình nằm phân tán trong khu dân cư, nguy cơ ô nhiễm chỉ giới hạn trong phạm vi một khu vực thôn, làng, xã nên rất khó quy hoạch.
Các nguy cơ ô nhiễm về nguồn nước sinh hoạt, ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn… đều cần phải được xử lý theo đúng quy trình với nguồn kinh phí đầu tư lớn trong khi đa số các hộ sản xuất tại làng nghề đều là cơ sở sản xuất nhỏ lẻ nên không đủ nguồn lực tài chính để đầu tư hệ thống xử lý chất thải đạt quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành.
Kèm theo đó, hệ thống quản lý môi trường làng nghề còn hạn chế nên chưa có được những con số thống kê về tổng lượng cũng như tính chất của khí thải, nước thải và rác thải.
Tại làng nghề chế biến bún, bánh mè xát Tân An (xã Quảng Thanh, huyện Quảng Trạch), với việc sản xuất hàng chục nghìn cái bánh tráng mỗi ngày, vấn đề xử lý nước thải đang được người dân hết sức quan tâm.
Với số lượng nhóm nghề phong phú, như: Mộc, mây tre đan, rèn kim khí, nghề làm hương, chổi đót, nước mắm, khoai deo, nón lá…, các làng nghề, làng nghề truyền thống tại Quảng Bình đều sử dụng nguồn nguyên liệu, phụ liệu từ nông, lâm, thủy sản tại địa phương.
Quy mô các làng nghề còn nhỏ, giá trị sản xuất không lớn, các ngành nghề sản xuất ít có chất độc hại tác động đến môi trường nên việc xử lý môi trường chủ yếu chỉ dừng lại ở công tác thu gom rác thải, xử lý để giữ gìn vệ sinh môi trường.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có khoảng 169 làng nghề, với các loại hình sản xuất như hàng thủ công mỹ nghệ, thêu ren, đồ gỗ mỹ nghệ; khai thác và chế biến vật liệu xây dựng, chế tác đá mỹ nghệ; ươm tơ dệt lụa; chế biến lương thực, thực phẩm, giết mổ; luyện kim, cơ khí... Hầu hết, các làng nghề có quy mô nhỏ, trình độ sản xuất thấp, công nghệ lạc hậu, hoạt động sản xuất xen kẽ trong các khu dân cư gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng.
Theo kết quả điều tra của Chi cục BVMT tỉnh, tất cả các làng nghề được điều tra (22% số làng nghề) chưa có biện pháp thu gom, xử lý khí thải tập trung. Tỷ lệ các cơ sở hoạt động trong các làng nghề xây dựng hệ thống xử lý khí thải rất thấp; việc vận hành chưa đạt hiệu quả.
Qua kết quả phân tích chất lượng môi trường không khí xung quanh tại 9 làng nghề (lựa chọn) so sánh với QCVN 05:2009/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCKTQG) về chất lượng không khí xung quanh; QCVN 06:2009/BTNMT - QCKTQG về một số chất độc hại trong không khí xung quanh; QCVN 26:2010/BTNMT/BTNMT: QCKTQG về tiếng ồn cho thấy: 7/9 làng nghề được lấy mẫu phân tích đều có dấu hiệu bị ô nhiễm bởi các chỉ tiêu như bụi, SO2, H2S… Cụ thể: Làng nghề vôi đá Đông Tân, Đông Hưng, huyện Đông Sơn, nồng độ bụi tại Trung tâm sản xuất của làng vượt QCVN 1,82 lần; tại khu dân cư Ngã Ba Nhồi, xã Đông Tân vượt 1,29 lần. Làng nghề chế biến hải sản tại xã Hải Thanh, huyện Tĩnh Gia, nồng độ NH3 tại khu vực trung tâm làng nghề vượt QCVN 1,08 lần. Làng nghề cơ khí Tiến Lộc, xã Tiến Lộc, huyện Hậu Lộc, tại khu vực trung tâm của làng nghề, nồng độ bụi vượt 1,21 lần; SO2 vượt 1,2 lần; Khu vực cổng của làng nghề, nồng độ bụi vượt 1,16 lần...
Hầu hết, các làng nghề chưa được đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung; các cơ sở, doanh nghiệp có hệ thống xử lý nước thải chiếm tỷ lệ rất thấp; nước thải chưa được thu gom xử lý hoặc chưa qua xử lý thải trực tiếp ra môi trường gây ô nhiễm nước mặt, nước ngầm khu vực xung quanh.
Điển hình, làng nghề ươm tơ, dệt nhiễu Hồng Đô, xã Thiệu Đô, huyện Thiệu Hóa hiện có 40 hộ trong làng làm nghề ươm tơ, dệt nhiễu. Lượng nước thải phát sinh từ quá trình ươm tơ khoảng 10 m3/ngày đêm/hộ gia đình. Loại nước thải này có độ màu cao, nhưng không được xử lý, thải trực tiếp ra môi trường.
Kết quả phân tích chất lượng môi trường nước thải, nước mặt và nước ngầm khu vực xung quanh của 9 làng nghề (đại diện) cho các loại hình sản xuất khác nhau so sánh với QCVN 08:2008/BTNMT, cột B1; QCVN 09:2008/BTNMT; QCVN 40:2011/BTNM; QCVN 11:2008/BTNMT; QCVN 14:2008/BTNMT, cho thấy còn nhiều làng nghề đang bị ô nhiễm bởi các chỉ tiêu: TSS, COD, BOD; NH4+, Coliform...
Tại các làng nghề, chất thải rắn sản xuất phát sinh từ quá trình sản xuất, kinh doanh của các cơ sở, doanh nghiệp chưa được xử lý hoặc xử lý không triệt để đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề ô nhiễm môi trường nông thôn, tác động xấu đến môi trường đất, nước, không khí và sức khỏe của người dân trong làng nghề.
Điển hình là làng nghề chế biến và khai thác đá Đông Tân, Đông Vinh, TP. Thanh Hóa; xã Yên Lâm, huyện Yên Định; xã Hà Phong, huyện Hà Trung… bột đá phát sinh từ quá trình sản xuất chưa được xử lý, hiện đang chất đống trong khuôn viên từng cơ sở trong làng nghề. Theo số liệu thống kê của Chi cục BVMT Thanh Hóa tại 37/169 làng nghề được điều tra, tổng lượng chất thải rắn phát sinh khoảng 37,5 tấn/ngày. Tỷ lệ thu gom, xử lý đạt khoảng 60%, khoảng 30% đưa đến nơi quy định của địa phương và 10% thải ra môi trường.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Trị có 49 làng nghề, làng có nghề tiểu thủ công nghiệp đang tồn tại và phát triển, trong đó 15 làng nghề đã được công nhận với các ngành như: Nước mắm, làm bún bánh, nấu rượu, chổi đót, bảo quản, chế biến thủy sản, chế biến nông sản…
Nhìn chung, công tác phát triển và bảo vệ môi trường làng nghề được các cấp các ngành quan tâm đầu tư, bước đầu cho thấy nhiều làng nghề đã được công nhận, việc đầu tư hệ thống xử lý chất thải đã được quan tâm. UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 391 về phê duyệt Kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường và xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên địa bàn tỉnh.
Trong đó, ưu tiên xử lý ô nhiễm môi trường tại làng bún Cẩm Thạch, Thượng Trạch và Linh Chiểu. Đến nay, hệ thống thu gom và xử lý nước thải làng bún Thượng Trạch đã xây dựng xong, đưa vào sử dụng bước đầu mang lại hiệu quả thiết thực. Làng bún Cẩm Thạch và làng bún Linh Chiểu đang trong quá trình xây dựng khu làng nghề mới để di dời các hộ sản xuất, chấm dứt tình trạng ô nhiễm môi trường trong khu dân cư.
Một thực tế hiện nay đối với một số làng nghề xảy ra tình trạng ô nhiễm môi trường thì chủ yếu do nước thải sản xuất, nổi cộm là các làng nghề như: bún Cẩm Thạch, bún Linh Chiểu, hấp sấy cá Gio Việt, và thị trấn Cửa Việt,… đây là ngành nghề đòi hỏi có nhu cầu sử dụng nước rất lớn. Nước thải chủ yếu từ các công đoạn như rửa, ngâm ủ, rửa bột, …nên có hàm lượng BOD, COD cao. Kết quả phân tích mẫu nước thải tại một số làng nghề trên địa bàn tỉnh cho thấy tại các làng nghề làm bún các thông số như: BOD, COD, TSS và Coliform đều vượt quy chuẩn cho phép như: làng bún Linh Chiểu thông số COD vượt từ 8,5 đến 14,9 lần; làng bún Cẩm Thạch thông số COD vượt 41,33 lần; làng nghề hấp cá xã Gio Việt thông số COD vượt 3,21 lần so với QCVN 40:2011/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp (cột B). Hầu hết các làng nghề lại chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải nên có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nước mặt cục bộ tại địa phương.
Để bảo vệ môi trường làng nghề, làng nghề truyền thống được tốt hơn, trong thời gian tới, các cấp chính quyền cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ môi trường, bảo vệ môi trường làng nghề để các hộ, cơ sở sản xuất trong làng nghề biết và thực hiện.
Các cơ quan chức năng cũng cần tính đến việc đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống xử lý nước thải tập trung, xử lý chất thải theo quy trình; gắn công tác bảo vệ môi trường tại các làng nghề, làng nghề truyền thống với chương trình xây dựng nông thôn mới và chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển của mỗi địa phương.