|
Việt Nam là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học phong phú nhất thế giới với nhiều kiểu hệ sinh thái, các loài sinh vật, nguồn gen phong phú và đặc hữu. |
Trên toàn cầu, tỷ lệ độ che phủ rừng trên trái đất đã giảm từ 31,6% xuống còn 30,6% trong giai đoạn 1990-2015. Hệ sinh thái rạn san hô hiện đã giảm 35% trong thời gian từ 1970-2015 và 25% số loài được nghiên cứu bị đe dọa tuyệt chủng...
Theo thông tin từ Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học, Tổng cục Môi trường, sự đa dạng về địa hình, kiểu đất, cảnh quan và khí hậu đã tạo nên tính đa dạng sinh học vô cùng phong phú và đặc sắc của Việt Nam. Sự đa dạng về các hệ sinh thái tự nhiên như hệ sinh thái trên cạn (đồng cỏ, rừng, savan...), hệ sinh thái đất ngập nước (rừng ngập mặn, rạn san hô, hồ chứa...) và hệ sinh thái biển đã tạo nên môi trường sống quan trọng cho 13.766 loài, động vật trên cạn 10.300 loài, vi sinh vật 7.500 loài, sinh vật nước ngọt với 1.438 loài vi tảo, 800 loài động vật không xương sống, 1.028 loài cá nước ngọt và 11.000 loài sinh vật biển. Việt Nam được xếp hạng thứ 16 trên thế giới về đa dạng tài nguyên sinh vật và là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học phong phú nhất thế giới với nhiều kiểu hệ sinh thái, các loài sinh vật, nguồn gen phong phú và đặc hữu...
Với bờ biển dài hơn 3.260km cùng với vùng biển rộng gấp hơn 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền và hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, các hệ sinh thái biển Việt Nam là cơ sở duy trì trữ lượng cá biển trên 5,3 triệu tấn và hàng năm có thể đáp ứng khoảng 47% nhu cầu protein của người dân.
Đa dạng sinh học ở Việt Nam có ý nghĩa to lớn trong đời sống tự nhiên và con người, cung cấp khoảng 80% lượng thủy sản khai thác từ vùng biển ven bờ và đáp ứng gần 40% lượng protein cho người dân. Nghề thủy sản đem lại nguồn thu nhập chính cho khoảng 8 triệu người và một phần thu nhập cho khoảng 12 triệu người. Khoảng 70% tăng trưởng du lịch là từ các vùng duyên hải có các hệ sinh thái tự nhiên giàu đa dạng sinh học. Các nghiên cứu cho thấy, những dải rừng ngập mặn ven biển Việt Nam góp phần giảm ít nhất 20-50% thiệt hại do bão, nước biển dâng và sóng thần gây ra. Đặc biệt, hệ thống rừng ngập mặn trồng ven đê còn đóng vai trò là tấm lá chắn xanh, giảm 20-70% năng lượng của sóng biển, đảm bảo an toàn cho các con đê biển, giúp tiết kiệm hàng nghìn tỷ đồng cho việc duy tu, sửa chữa đê biển... Bảo tồn đa dạng sinh học đã được Đảng và Nhà nước được coi là một trong những giải pháp để thực hiện phát triển bền vững đất nước.
Mặc dù có hệ sinh thái tự nhiên đa dạng và phong phú, nhưng trong bối cảnh dân số đông, nhu cầu tiêu thụ tài nguyên lớn, các phương thức tiêu thụ, sử dụng tài nguyên vẫn còn chưa bền vững... đang khiến cho đa dạng sinh học của Việt Nam bị suy giảm với tốc độ nhanh. Các hệ sinh thái tự nhiên của Việt Nam tiếp tục bị thu hẹp diện tích, xuống cấp về chất lượng, đặc biệt là các hệ sinh thái đất ngập nước, núi đá vôi, bãi bồi cửa sông ven biển... làm mất nguồn cung cấp nước ngầm, nơi sinh sản, phát triển, cư trú của các loài sinh vật.
Từ năm 2014 đến nay, đã phát hiện 344 loài mới gồm 208 loài động vật, 136 loài thực vật nhưng các loài này đang phải đối mặt với những nguy cơ tuyệt chủng rất lớn. Theo đó, số loài cần được ưu tiên bảo vệ đang tiếp tục gia tăng. Trong phạm vi đề tài khoa học cấp nhà nước “Điều tra, đánh giá các loài có nguy cơ tuyệt chủng cần được ưu tiên bảo vệ nhằm tu chỉnh Sách đỏ Việt Nam”, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật (2015) đã đề xuất đưa vào Sách đỏ Việt Nam giai đoạn tới 1.211 loài, gồm 600 loài thực vật và nấm; 611 loài động vật là thú, chim, bò sát, ếch nhái, côn trùng, động vật không xương sống nước ngọt và biển. Như vậy, so với Sách đỏ Việt Nam 2007 thì số lượng loài đề xuất vào Sách đỏ Việt Nam giai đoạn mới này tăng hơn nhiều.
Tiêu biểu như khu vực Tây nguyên và Nam Trung bộ, các nghiên cứu chỉ ra tại đây có tới 36 khu vực đa dạng sinh học trọng yếu, hơn 3,76 triệu ha rừng tự nhiên, nhiều trung tâm đặc hữu thực vật, chim, bò sát, ếch nhái với nhiều loài đặc hữu. Ước tính sơ bộ hơn 5.000 loài thực vật; có ít nhất 142 loài thú, 448 loài chim, hơn 120 loài bò sát và 84 loài lưỡng cư.
Theo thông tin từ Ủy ban Bảo tồn Thiên nhiên Chung (JNCC), ảnh hưởng đa dạng sinh học của Việt Nam chủ yếu đến từ ô nhiễm môi trường. Trong đó, các mối đe dọa hàng đầu đến từ: Nguồn thải nông nghiệp và lâm nghiệp (ảnh hưởng tới 298 loài); nước thải sinh hoạt và đô thị (tác động đến 258 loài); nguồn thải công nghiệp và quân sự (ảnh hưởng đến 245 loài). Ảnh hưởng từ ô nhiễm không khí, rác thải, biến đổi khí hậu... đang đe dọa 236 loài.
Cụ thể, việc sử dụng tài nguyên không hợp lý đã đe dọa đến 58,5% loài thực vật và 86,1% loài động vật; hoạt động nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản đe dọa đến 52% số loài thực vật và 39,3% loài động vật; phát triển khu dân cư và cơ sở hạ tầng đã đe dọa đến 49,3% loài động vật. Số loài bị đe dọa cấp độ toàn cầu phân bố ở Việt Nam theo Danh mục Đỏ IUCN (2021) là 891 loài động vật và 367 loài thực vật.
Mực nước biển dâng, sự gia tăng xâm nhập mặn, tăng độ mặn tại các khu vực cửa sông ven biển, các hiện tượng thiên tai khác như bão, lũ lụt, đã tác động tiêu cực đến các hệ sinh thái biển và ven biển. Thiên tai cùng với các hoạt động lấn biển để làm các ao nuôi thủy sản và xây dựng công trình ven biển gây mất một phần diện tích các hệ sinh thái rạn san hô và hệ sinh thái thảm cỏ biển.
Điển hình là độ đa dạng loài của các thảm cỏ biển ở miền Trung tương đối cao (8 loài cỏ biển) so với tổng số 15 loài cỏ biển đã được xác định ở Việt Nam. Trong số đó, loài H.beccarii ở Cửa Đại và đầm Cầu Hai đã được IUCN xếp vào danh sách Đỏ - có nguy cơ tuyệt chủng toàn cầu. Trong giai đoạn 2017 - 2020, diện tích các thảm cỏ biển được ước tính lớn nhất tại đầm Cầu Hai với khoảng 402,5 ha, theo sau là khu bảo tồn biển Lý Sơn và vịnh Vân Phong với diện tích tương ứng là 324,2 ha và 332,1 ha. Đầm Lăng Cô ghi nhận diện tích thảm cỏ biển thấp nhất với 42,57 ha.
Tuy nhiên, diện tích thảm cỏ biển ở miền Trung đang có xu hướng bị suy giảm nghiêm trọng với số lượng và tần suất các cơn bão ngày càng tăng lên. Khi bão nhiệt đới vào bờ sẽ gây xáo trộn ở những tầng đất phía dưới thảm cỏ biển, ảnh hưởng đến môi trường sống của chúng. Tại đảo Lý Sơn, các cơn bão và các đợt sóng lớn như cơn bão số 9 vào tháng 11/2018; bão số 1 vào tháng 1/2019 đã đánh bật rễ cỏ biển nên phần lớn bộ rễ của các loài cỏ biển có xu hướng phân bố phía trên mặt.
Bên cạnh các yếu tố tự nhiên, quá trình đô thị hóa và sự biến động các thảm thực vật trên đất liền cũng gây ảnh hưởng lớn đến thảm cỏ biển ở phía dưới các thủy vực. Diện tích thảm cỏ biển tại đầm Cầu Hai, khu vực Cửa Đại và đầm Lăng Cô cũng chịu ảnh hưởng bởi sự phát triển của các khu du lịch và công trình xây dựng như xây dựng nơi trú bão của tàu thuyền, cảng biển, bờ đê, bến thuyền du lịch, nuôi trồng thủy sản, nhà hàng và đường giao thông.
Theo nghiên cứu, thảm cỏ biển tại đảo Lý Sơn đang phải đối mặt với nguy cơ bị suy thoái do tình trạng khai thác cát biển để trồng hành tỏi. Để có thể thu hoạch 400 - 500 tấn tỏi mỗi năm, nhân dân đảo Lý Sơn đã khai thác lên tới 70.000 m3 cát. Tình trạng này khiến Lý Sơn hàng năm mất đến khoảng 5 - 7 ha và gây ra hiện tượng xói lở.
Còn tại vịnh Vân Phong, bên cạnh việc người dân đào, xới liên tục trong thảm cỏ biển bằng cuốc để khai thác các nguồn lợi ngao, sò thì sự phát triển của một số khu kinh tế, cụ thể như việc xây dựng cảng và hoạt động sửa chữa tàu biển của nhà máy Hyundai Vinashin đã gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của cỏ biển. Đây có thể được xem là một trong nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm của 275,8 ha thảm cỏ biển trong vòng 9 năm.
Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu với hiện tượng nước biển ấm lên, độ mặn nước biển thay đổi cùng sự ô nhiễm môi trường nước đã làm thay đổi môi trường sống của san hô. Biến đổi khí hậu làm thay đổi chế độ thủy, hải văn, sóng biển và nước biển dâng sẽ có tác động đáng kể đến thu hẹp diện tích của hệ sinh thái rừng ngập mặn. Theo kịch bản biến đổi khí hậu, khi mực nước biển dâng 1 mét, dự tính khoảng 300km² rừng ngập mặn của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng, tương đương với diện tích khoảng 15,8% tổng diện tích rừng ngập mặn của Việt Nam. Thêm vào đó, diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp do một số loài cây rừng ngập mặn không kịp thích ứng với các thay đổi của điều kiện môi trường như độ ngập triều, độ mặn, nhiệt độ. Hệ sinh thái rừng ngập mặn có tính đặc thù, rất nhạy cảm với những tác động của biến đổi khí hậu. Bão với cường độ mạnh, tần suất tăng cũng hủy hoại rừng ngập mặn.
Ngoài diện tích rừng ngập mặn bị mất, mực nước biển dâng cao cũng gây ra những tác động gián tiếp nghiêm trong đến đa dạng sinh học và sinh trưởng của rừng ngập mặn. Sự suy thoái và suy giảm diện tích của rừng ngập mặn làm gia tăng nguy cơ xói lở bờ biển; giảm sinh kế của cộng đồng cư dân ven biển, ảnh hưởng đến hoạt động đánh bắt, nuôi trồng thủy sản và du lịch sinh thái; giảm khả năng lưu giữ CO2 của rừng ngập mặn.
Để bảo tồn sự đa dạng sinh học ở Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 149 phê duyệt Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Mục tiêu tổng quát đến năm 2030 gia tăng diện tích các hệ sinh thái tự nhiên được bảo vệ, phục hồi và bảo đảm tính toàn vẹn, kết nối; đa dạng sinh học được bảo tồn, sử dụng bền vững nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng nền kinh tế xanh, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trong đó, diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên trên đất liền phấn đấu đạt 9% diện tích lãnh thổ đất liền; diện tích các vùng biển, ven biển được bảo tồn đạt từ 3 - 5% diện tích vùng biển tự nhiên của quốc gia; 70% khu bảo tồn thiên nhiên, di sản thiên nhiên được đánh giá hiệu quả quản lý; tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc duy trì ổn định từ 42% - 43%; phục hồi được ít nhất 20% diện tích hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái.
Bảo tồn hiệu quả các loài hoang dã, đặc biệt là các loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ, loài di cư; không có thêm loài hoang dã bị tuyệt chủng; tình trạng quần thể của ít nhất 10 loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ được cải thiện; các nguồn gen hoang dã và giống cây trồng, vật nuôi được lưu giữ và bảo tồn đạt mục tiêu thu thập, lưu giữ tối thiểu 100.000 nguồn gen; hạn chế các tác động tiêu cực tới đa dạng sinh học.
Tầm nhìn đến năm 2050, các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, các loài nguy cấp, nguồn gen quý, hiếm được phục hồi, bảo tồn thực sự hiệu quả; đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái được lượng giá đầy đủ, sử dụng bền vững và mang lại lợi ích thiết yếu cho mọi người dân, góp phần bảo đảm an ninh sinh thái, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững đất nước.
Để đạt được mục tiêu trên, Chiến lược đưa ra một số nhiệm vụ trọng tâm như: Tăng cường bảo tồn, phục hồi đa dạng sinh học; bảo tồn và phục hồi các loài hoang dã nguy cấp, đặc biệt là các loài động vật nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ, loài di cư; tăng cường công tác bảo tồn nguồn gen, quản lý tiếp cận nguồn gen, chia sẻ lợi ích và bảo vệ tri thức truyền thống về nguồn gen; đánh giá, phát huy lợi ích của đa dạng sinh học phục vụ phát triển bền vững, phòng chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; kiểm soát các hoạt động gây tác động tiêu cực đến đa dạng sinh học.
Trong đó, Chiến lược thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên và hành lang đa dạng sinh học; củng cố và mở rộng các khu vực tự nhiên có tầm quan trọng quốc gia, quốc tế; phục hồi hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị suy thoái; mở rộng và củng cố mạng lưới quỹ gen…