Dù đối mặt nhiều khó khăn, tuy nhiên, ước trị giá xuất khẩu gỗ và lâm sản ngoài gỗ năm 2021 vẫn thu về kết quả ngoạn mục 15,6 tỷ USD, ngành hàng này dự kiến xuất siêu 12,6 tỷ USD.
|
Năm 2021, xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ ước đạt 9,1 tỷ USD, tăng 21,4 % so với năm 2020 |
Chia sẻ tại Hội nghị giao ban đánh giá kết quả năm 2021 và bàn giải pháp đạt mục tiêu xuất khẩu gỗ và lâm sản cho năm 2022 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) phối hợp với Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam tổ chức ông Bùi Chính Nghĩa - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) cho biết: 11 tháng năm 2021 xuất khẩu gỗ và lâm sản ngoài gỗ đạt 14,27 tỷ USD, tăng 21% so với năm 2020. Ước giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản ngoài gỗ năm 2021 đạt 15,6 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2020. Trong đó, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 14,5 tỷ USD, tăng 17,2% so với năm 2020; xuất khẩu lâm sản ngoài gỗ đạt khoảng 1,1 tỷ USD, tăng 29,5%, gồm: sản phẩm từ mây, tre 841 triệu USD, tăng 38,1%; sản phẩm từ quế, hồi 265,4 triệu USD, tăng 8,1%.
Về thị trường, gỗ và lâm sản được xuất sang trên 140 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó thị trường chủ yếu là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, EU và Hàn Quốc với tổng giá trị xuất khẩu ước đạt 13,98 tỷ USD, chiếm 89,5% giá trị xuất khẩu lâm sản của cả nước.
Trong đó, xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ ước đạt 9,1 tỷ USD, tăng 21,4% so với năm 2020; xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản ước đạt 1,45 tỷ USD, tăng 6,7% so với năm 2020; xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc ước đạt 1,5 tỷ USD, tăng 23,7% so với cùng kỳ năm 2020; xuất khẩu sang thị trường EU ước đạt 1,1 tỷ USD, tăng 14,4 % so với năm 2020.
Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của doanh nghiệp FDI ước đạt 7,38 tỷ USD, tăng 20,9% so với năm 2020, chiếm 47,3% giá trị xuất khẩu lâm sản.
Cũng theo ông Bùi Chính Nghĩa, trị giá xuất khẩu gỗ, lâm sản vào một số thị trường truyền thống giữ mức tăng trưởng cao. Điều này cho thấy các doanh nghiệp chế biến đã tranh thủ tận dụng thời cơ phát triển mở rộng thị trường trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham gia.
“Trị giá xuất khẩu một số sản phẩm tăng cao như: Dăm gỗ tăng 18,4%, viên nén gỗ tăng 17,4%. Điều này là do nhu cầu tiêu dùng nhiệt điện tăng mạnh tại một số quốc gia, điển hình như Hàn Quốc”, ông Bùi Chính Nghĩa thông tin thêm.
Ở chiều ngược lại, năm 2021, nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 2,97 tỷ USD, tăng 16,2% so với 2020. Trong đó, gỗ nguyên liệu đạt 2,42 tỷ USD, tăng 1,1%; sản phẩm gỗ đạt 840,5 triệu USD, tăng 401,6%. Trị giá nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ một số quốc gia phát triển có nền quản trị rừng tiên tiến tăng cao như: Australia tăng 101%, Brazil tăng 96%, Chile tăng 41%, Pháp tăng 27,8%, Đức tăng 18,3%, Hoa Kỳ tăng 12,5%, Nhật Bản tăng 9,7%.
Ông Đỗ Xuân Lập - Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam - đánh giá, kết quả xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ vượt xa mục tiêu đặt ra, một trong những nguyên nhân đáng chú ý là sự chuyển biến mạnh mẽ trong giai đoạn cuối năm khi Chính phủ chuyển từ chiến lược “Zero Covid-19” sang “sống chung” với dịch. Điều này được thể hiện rất rõ qua Nghị quyết 128/NQ-CP ban hành quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”. Bên cạnh đó, điểm quan trọng còn là sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp trong ngành, vượt khó hướng tới phát triển bền vững.
Các doanh nghiệp, hội, hiệp hội ngành gỗ đều có chung nhận định, Việt Nam đã phê chuẩn và đang triển khai theo lộ trình các FTA song phương và đa phương như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), FTA Việt Nam - EU (EVFTA); Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)… Điều này giúp thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng của các nước tham gia FTA được cắt giảm hoặc xóa bỏ, tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Đây là cơ hội rất tốt để các doanh nghiệp gỗ Việt vươn ra thị trường thế giới.
Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, kéo dài, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, đến sản xuất tiêu dùng sẽ tiếp tục là những thách thức tác động tới ngành công nghiệp chế biến gỗ trong thời gian tới. Ngoài ra, các thị trường chính xuất khẩu gỗ, sản phẩm gỗ của Việt Nam ngày càng yêu cầu thực hiện chặt chẽ việc kiểm soát nguồn gốc gỗ hợp pháp.
Đáng chú ý, nguy cơ gian lận thương mại, giả xuất xứ hàng hóa ngày càng gia tăng; cạnh tranh thương mại diễn ra phức tạp. Chủ nghĩa bảo hộ của các quốc gia nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ có xu hướng tăng; tiềm ẩn nhiều nguy cơ, ảnh hưởng đến kinh tế thế giới và ngành công nghiệp chế biến, xuất khẩu gỗ của nước ta.
Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gỗ, ông Đỗ Xuân Lập đề nghị doanh nghiệp được tiếp cận tiêm vắc xin mũi 3 sớm nhất có thể. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý nhà nước cùng “chung tay” với doanh nghiệp chuyển dịch từ nguồn nguyên liệu gỗ nhập khẩu sang gỗ rừng trồng trong nước. Muốn vậy, cơ chế chính sách về đất đai phải thay đổi mang tính đột phá. Các doanh nghiệp trong ngành cần thay đổi phương thức sản xuất, đóng gói, giao hàng.
Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cũng như cộng đồng doanh nghiệp ngành gỗ sẽ tiếp tục hợp tác với cơ quan chức năng nhằm giảm thiểu rủi ro trong nguồn cung gỗ nhập khẩu, gian lận thương mại, kiến nghị cơ quan chức năng thực hiện rà soát kỹ nguồn đầu tư FDI có tính rủi ro cao.